Tuesday 31 August 2010

Ông Vũ Mão

Theo mỗ được biết, ông đã về hưu, không rõ ông còn giữ chức vụ gì nữa không, nếu có chắc cũng của hội hè chứ khó có thể là một cương vị chính thức. (À mà báo chí giới thiệu ông là Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Căm-pu-chia). Vì thế, thấy khó hiểu khi ông tham gia vào đoàn chính thức của CTN Triết đi thăm Lào (đi Cambodia thì còn được) mấy ngày gần đây.

Sunday 22 August 2010

Chúc mừng

Đây là lời chúc mừng chân thành đến Hoà thượng Thích Học Toán (HT THT) Ngô Bảo Châu, người đã mang lại vinh dự lớn lao chung cho các nhà khoa học, ngành Toán học, và toàn thể đất nước & con người Việt Nam qua giải thưởng Fields 2010.



VTV ngày 19.8 đưa tin thì Monsieur Nhân (Nguyễn Thiện) nói chắc như đinh đóng cột rằng HT THT sẽ nhận chức lãnh đạo một Viện Toán mới dự định được thành lập. Chẳng biết thực hư như thế nào, chỉ có HT THT mới trả lời được chính xác.

Tuesday 17 August 2010

Vylkerie

Trong nước Đức phát xít thời ấy không chỉ có những tên inglorious basterds.

Inglorious Basterds

Một phim hay của Quentin Tarantino, với những chi tiết khá đặc thù.

Iron-Jawed Angels

Khâm phục những phụ nữ Mỹ đấu tranh cho nữ quyền. Xem ra việc đấu tranh cho các quyền cơ bản không phải là dễ dàng.

Sỹ-Tốt (?)

CAND VN thật giỏi, chuyện từ năm nảo năm nào mà điều tra rõ ràng đâu ra đấy hết. Phen này đồng chí Sỹ chắc ăn án tù nặng rồi.

Why the Soviet Union collapsed (2)

Tuần Việt Nam tiếp tục đăng lại bài của Nhân dân điện tử về những biến thái của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô viết (thường gọi tắt là Liên Xô, tiếng Nga CCCP, Ttiếng Anh USSR hoặc Soviet Union). Đáng chú ý, sStalin có bị hê phán thay vì quan điểm "chính thống" trước nay thiên về ca ngợi, đề cao.

Những vi phạm về nguyên tắc xây dựng Đảng (kỳ 1)


Tác giả: Theo Nhân dân điện tử - Thời nay

Bài đã được xuất bản.: 17/08/2010 06:00 GMT+7

Stalin nói: Báo cáo các đồng chí thảo luận đã bị bỏ, báo cáo mới sửa các đồng chí còn chưa xem. Sau một lát lúng túng, Beria, con người rất giỏi nịnh bợ, nói: Bản thân bản báo cáo này đã quá hay, tin rằng sau khi được đồng chí Stalin sửa chữa báo cáo sẽ còn tuyệt vời hơn nữa (!) Hồi ấy, trong Đảng CS Liên Xô, mọi người hầu như không nói thật.


Why the Soviet Union collapsed

Tuần Việt Nam đăng lại của Nhân Dân online, (xem các đường dẫn dưới đây), toàn văn xem ở đây.

Có lẽ đây là lần đầu tiên, cơ quan ngôn luận (speech organ) chính thức của đảng nhìn nhận sự sụp đổ của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa xô viết (CCCP theo tiếng Nga, USSR hoặc Soviet Union theo tiếng Anh) có nguyên nhân tự thân sâu xa, ít nhất là từ thời Brezhnev (1964-1982) và sau đó, chứ không phải đơn giản là "sự phản bội" (hiểu là CNCS) của Boris Yeltsin hoặc Mikhail Gorbachev như quan điểm được coi là "chính thống" bấy lâu nay.

Đoạn sau đây khá đáng chú ý:

Trước khi Đảng CS Liên Xô sụp đổ không lâu đã có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: “Đảng CS Liên Xô đại diện cho ai?”. Kết quả là, số người cho rằng Đảng CS Liên Xô đại diện cho nhân dân Liên Xô chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng CS Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước.

Tuy nhiên, bài này cũng có sai sót: Khruchev đã bị truất khỏi vị trí quyền lực năm 1964 chứ không phải qua đời khi còn ại viị như trong bài.

Toàn văn:

Tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô


Tác giả: Theo Nhân dân điện tử - Thời nay

Bài đã được xuất bản.: 16/08/2010 12:00 GMT+7

Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô trước hết là xuất phát từ chức tước. Có người cho rằng, chức tước càng cao thì đặc quyền càng nhiều, nếu muốn làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối lộ các lãnh đạo liên quan. Chức tước vì thế mà có giá.


LTS: Những bài học lịch sử về sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô luôn thu hút sự quan tâm của công luận. Tờ Nhân Dân điện tử vừa đăng hồ sơ có tựa đề: Tầng lớp đặc quyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin đăng tải lại để cùng suy ngẫm.


Vào một ngày mùa thu năm 1988, đột nhiên có hàng trăm, hàng nghìn người tụ tập bên ngoài của một cửa hàng ở Thủ đô Moscow. Nguyên nhân gì đã khiến cho cửa hàng không phải là lớn này trở thành tâm điểm của báo chí và dư luận đến vậy?

Đây là một cửa hàng đặc biệt, chuyên phục vụ một số khách hàng đặc biệt, và hôm đó là ngày cuối cùng trước khi cửa hàng tuyên bố bị đóng cửa. Người dân Liên Xô gọi các khách hàng đặc biệt của cửa hàng đặc biệt này là những người thuộc tầng lớp đặc quyền. Tầng lớp đặc quyền này từng bước hình thành dưới thời Brezhnev và tiếp tục phát triển dưới thời Gorbachev; và đó là một chất xúc tác gây nên sự tan rã từ bên trong Đảng CS Liên Xô, là cũng một trong các nhân tố quan trọng thúc đẩy biến cố Liên Xô.

Sau Cách mạng Tháng Mười, chiến tranh và nạn đói đe dọa nghiêm trọng đối với chính quyền Xô Viết còn non trẻ. "Rồi sẽ có bánh mì và sẽ có tất cả", câu nói đầy ấn tượng của Vasili trong bộ phim Lenin trong Tháng Mười đã trở thành câu nói thịnh hành một thời ở Liên Xô. Ngày nay, người ta khó có thể tin rằng những người làm việc gần gũi với Lenin từng nhường nhịn, chia sẻ cho nhau chỉ một mẩu bánh mì, nhưng đây là sự thật của lịch sử.

Nhà làm phim đã dựa vào một câu chuyện có thật hồi ấy để dựng nên tình tiết này trong phim. Năm 1918, chính quyền Xô Viết gặp phải một cuộc khủng hoảng lương thực. Tại một cuộc họp của UBND, Churuva lúc đó đang là Ủy viên nhân dân phụ trách vấn đề lương thực, bất ngờ bị ngất xỉu. Người ta phải khẩn cấp điều bác sĩ đến khám. Khám xong, bác sĩ kết luận, Churuva bị ngất xỉu do đói!

Là quan chức cao nhất phụ trách vấn đề lương thực của chính quyền Xô viết, Churuva nắm trong tay quyền điều động hàng triệu, thậm chí hàng chục triệu tấn lương thực, nhưng lại không giữ cho riêng mình số thực phẩm đủ để no bụng. Ngay sau đó, Lenin kiến nghị xây dựng nhà ăn điều dưỡng để bảo đảm cho những đồng chí đang ngày đêm lo lắng cho nhân dân được no. Điều này hoàn toàn đúng và không có gì phải bàn cãi.


Brezhnev trong một kỳ nghỉ tại Krym (Crưm), Liên Xô (trước đây năm 1973).

Nhà ăn điều dưỡng do Lenin khởi xướng năm ấy dần dần mở rộng thành cửa hàng cấp đặc biệt, rồi dần dần quy mô và số lượng của nó đã có sự thay đổi căn bản. Sau nửa thế kỷ, chỉ có những cán bộ đặc biệt cao cấp của Liên Xô mới có thể ra vào tòa nhà không hề có biển hiệu này. Đây là cửa hàng cung cấp đặc biệt lớn nhất Moscow.

Vào dịp cuối tuần, những chiếc xe hơi lũ lượt kéo đỗ trước của tòa nhà, chật kín cả dãy phố. Ở đây có đủ các loại hàng hóa xa xỉ của nước ngoài, như rượu Brandy của Pháp, Whisky của Scotland, thuốc lá thơm Mỹ, chocolate Thụy Sĩ, coffee của Italia, giầy da của Áo, len dạ Anh, máy thu thanh Đức, máy ghi âm Nhật Bản,... có cả các mặt hàng khan hiếm ở Liên Xô. Báo chí đã nói công khai rằng, đối với những nhân vật thuộc tầng lớp trên thì chủ nghĩa Cộng sản đã được xây xong từ lâu! Chỉ riêng Moscow đã có hơn 100 cửa hàng như vậy.

Tầng lớp đặc quyền trong điện Kremlin có quy tắc riêng của mình, chức vụ càng cao đặc quyền càng lớn thì sự chênh lệch về đãi ngộ vật chất mà họ được hưởng so với dân thường càng lớn. Đương nhiên những người được hưởng đặc quyền này chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô. Thế nhưng thứ đặc quyền này phải chăng là căn nguyên đầu tiên của sự bất mãn xã hội mà tầng lớp này đã gây ra?

Thời kỳ Liên Xô vừa bắt đầu xây dựng CNXH, mọi người phấn đấu gian khổ hướng tới một cuộc sống mới. Khi đang phải phấn đấu vất vả để thực hiện lý tưởng chung, xã hội không chấp nhận những hàng vi dành chiếm độc quyền, mưu lợi cá nhân. Vào lúc nhà nước, dân tộc đứng trước nguy cơ tồn vong, nếu nói cán bộ lãnh đạo Đảng CS Liên Xô có đặc quyền gì đó thì đó chính là xung phong ra trận, xả thân chiến đấu, tắm máu sa trường, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược trong tiếng réo hờn căm của Kachiusa.

Thời Stalin, yêu cầu của Đảng với cán bộ nhìn chung rất nghiêm khắc. Khi đó Liên Xô cũng đang phải đương đầu với môi trường chiến tranh tàn khốc và cả sóng to gió lớn của cuộc đấu tranh chính trị. Từng đoàn cán bộ, đảng viên đi ra tiền tuyến. Sự thay đổi cán bộ lãnh đạo diễn ra thường xuyên, tầng lớp đặc quyền không có cơ hội hình thành.


Nikita Khrushchev - Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, giai đoạn 1953 - 1964

Sau khi lên nắm quyền, Khrushchev đã thực hiện chính sách "cán bộ đặc biệt" theo quy định tại Điều 25 - Điều lệ Đảng CS được Đại hội 22 của Đảng CS Liên Xô thông qua. Cán bộ đảng viên cần thay đổi thường xuyên. Tại các buổi bầu cử diễn ra tại tổ chức đảng cơ sở hàng năm đều có hàng loạt bí thư bị thay thế sau khi kết thúc nhiệm kỳ. Tỷ lệ thay đổi cán bộ lãnh đạo lên tới 60%. Bởi vậy, trong thời kỳ này Liên Xô vẫn chưa hình thành tầng lớp người thật sự được hưởng đặc quyền trong Đảng. Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô chỉ từng bước hình thành sau khi Brezhnev nắm quyền, nhất là vào giai đoạn cuối thời Brezhnev.

Tháng 4-1966, Đảng CS Liên Xô tổ chức Đại hội 23. Đây là Đại hội Đảng đầu tiên diễn ra sau khi Brezhnev nắm quyền điều hành công tác của BCH TƯ. Đại hội đã sửa đổi Điều 25 trong Điều lệ Đảng. Brezhnev đặc biệt tâm đắc câu nói của Khrushchev, người một thời gian dài phụ trách công tác ý thức hệ trong Đảng rằng: "Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là sự bảo đảm cho thành công".

Brezhnev theo đuổi sự ổn định của đội ngũ cán bộ một cách phiến diện sau đó phát triển thành chế độ chức vụ. Thực chất là chế độ chức vụ suốt đời, áp dụng với cán bộ lãnh đạo. Các cán bộ cao cấp của Liên Xô như Brezhnev, Khrushchev đều qua đời khi còn đương chức. Chính sách cán bộ của Brezhnev đã khiến cho các thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng CS Liên Xô gần như không có biến động trong suốt một thời gian dài. Tại Đại hội 23 của Đảng CS Liên Xô, số ủy viên tái đắc cử và liên nhiệm đạt tỷ lệ 79,4%.

Tại Đại hội 25, không tính số ủy viên T.Ư đã qua đời thì tỷ lệ Ủy viên T.Ư liên nhiệm cao tới 90%.

Trong hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng cấp tỉnh từ năm 1978 đến năm 1981, chỉ có năm trong số 156 vị trí bí thư tỉnh ủy có sự thay đổi về nhân sự. Đến mùa xuân năm 1978, độ tuổi bình quân của 58 vị phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và bộ trưởng là 70. Thực tế này đã tạo ra một đội ngũ lãnh đạo già nua, đương chức suốt đời. Hậu quả của chế độ cán bộ này là vừa khiến cho tầng lớp lãnh đạo thiếu đi sức sống vừa dễ hình thành một lực lượng hạt nhân trong tầng lớp đặc quyền.

Xét về khách quan, chế độ cán bộ lãnh đạo suốt đời làm cho đội ngũ, tầng lớp đặc quyền không ngừng mở rộng, kéo theo sự không ngừng tăng lên cơ quan hành chính được lập ra để bố trí ngày càng nhiều cán bộ lãnh đạo. Cuối những năm 70 của thế kỷ trước, số cơ quan cấp ban, bộ trực thuộc T.Ư Đảng CS Liên Xô lên tới 20. Trong đó, đại bộ phận trùng lặp với các cơ quan của chính phủ. Thậm chí tên gọi của những ban, bộ này cũng giống hệt nhau. Như Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp quốc phòng, Ban Công nghiệp nặng và năng lượng, Ban Chế tạo cơ khí, Ban Văn hóa...

Dưới thời Brezhnev, Đảng CS Liên Xô đã tạo đất cho tầng lớp đặc quyền sinh sôi, nảy nở. Nhiều cán bộ cấp cao không khỏi sửng sốt trước chế độ đãi ngộ đặc biệt mà họ được hưởng ngay sau khi được đề bạt.

Ligachev kể lại trong hồi kí rằng: Năm 1983, khi được bổ nhiệm làm Trưởng ban Tổ chức T.Ư Đảng CS Liên Xô, ngay ngày hôm sau ông đã được cấp một chiếc xe ô-tô cao cấp. Khi ông yêu cầu thay cho mình một chiếc xe đẳng cấp thấp hơn một chút, không ngờ ông bị Chánh văn phòng T.Ư Đảng phê bình lại rằng: đồng chí làm như thế là một sự đòi hỏi đặc biệt, làm mất phong độ của cơ quan. Nếu không ở trong cuộc, người ta không thể tưởng tượng được những hưởng thụ do đặc quyền mang lại.

Dưới thời Brezhnev, con cái tầng lớp đặc quyền chỉ cần dựa vào địa vị đặc quyền của bố mẹ là có thể dễ dàng được vào học tại những trường đại học tốt nhất. Sau khi tốt nghiệp lại được nhận vào các ban, ngành ưu việt nhất, đồng thời nhanh chóng được nắm giữ những cương vị quyền lực quan trọng. Thậm chí, đặc quyền còn có thể trở thành "lá bùa hộ mệnh" để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở. Rubanov, con rể của Brezhnev, đã dựa vào quyền thế của bố vợ, quan lộ phất như "diều gặp gió".

Chỉ trong vòng 10 năm, ông ta đã từ một sĩ quan cấp thấp trở thành thượng tướng, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Trong thời gian này, ông ta đã tham ô, nhận hối lộ 650 nghìn rúp, gây ra vụ án "phò mã" chấn động cả nước. Còn Yuri, con trai Brezhnev thì được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Liên Xô khi còn rất trẻ.

Tháng 1-1982, tại sân bay Moscow, một công dân Liên Xô chuẩn bị lên máy bay ra nước ngoài du lịch, nhân viên hải quan đã tìm thấy một lượng lớn kim cương cất giấu trong chiếc túi bí mật trên người. Kết quả điều tra cho thấy, đây là sưu tập cá nhân của nữ huấn luyện viên dạy sư tử ở Rạp xiếc Trung ương. Sau đó không lâu, chuyên gia mỹ thuật và giám đốc của rạp xiếc bị bắt giữ. Người ta còn tìm thấy số kim cương trị giá khoảng 1 triệu USD và nhiều đồ vật quý giá khác tại nhà riêng của chuyên gia mỹ thuật và khoảng 500 nghìn bảng Anh cùng nhiều đồ trang sức, tác phẩm hội họa đắt tiền tại nhà riêng của giám đốc.

Đáng nói là, những thứ này đều thuộc sở hữu của Galina - con gái Brezhnev. Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, vụ buôn lậu đồ trang sức, kim cương còn liên quan Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Yuri. Vụ việc này lẽ ra thuộc thẩm quyền của Bộ Nội vụ xử lý, nhưng sau đó lại được chuyển sang cho Ủy ban An ninh quốc gia (KGB). Trong khi Phó Chủ tịch thứ nhất của KGB là Svigun, người trực tiếp chỉ đạo vụ án này lại là anh em cọc chèo với Brezhnev. Kết quả là, câu chuyện kết thúc ở đó. Con trai Brezhnev là Yuri và con gái của ông ta là Galina vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.

Trong 17 năm giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Selokhov đã lợi dụng chức quyền, biến của công thành của tư. Ông ta không chỉ chiếm khu biệt thự cấp nhà nước lớn nhất của Bộ Nội vụ và nhà khách Bộ Nội vụ làm của riêng mà còn chiếm một tòa chung cư rất lớn ở số 24, phố Hensen. Một lượng lớn tài sản cá nhân của Selokhov và người nhà ông ta được cất giữ trong khu biệt thự cấp nhà nước và tòa chung cư này. Tại một khu biệt thự, chỉ tính thảm trải nhà đã xếp tới bảy tầng, dưới gầm giường nhét đầy những bức tranh sơn dầu của các danh họa Nga.



Từ trái qua phải: Yury Churbanov, Galina Brezhnev and Nikolai Shchelokov

Dưới thời Brezhnev, tình trạng tham nhũng tại Moscow và các nước cộng hòa thuộc Liên bang ngày càng nghiêm trọng. Năm 1980, nhân viên điều tra tình cờ mua một lô cá trích đóng hộp, sau khi mở nắp mới phát hiện bên trong đựng toàn trứng cá Cavian cực đắt. Cá trích sao lại biến thành trứng cá Cavian được?

Sau một thời gian vất vả điều tra, vụ việc đã được làm sáng tỏ. Thì ra một số quan chức Bộ Ngư nghiệp Liên Xô đã bí mật giao dịch với một công ty để họ đóng trứng cá Cavian sản xuất tại Sochi và Astrakhan vào trong những hộp dán nhãn cá trích rồi vận chuyển ra nước ngoài. Công ty phương Tây mua với giá cá trích, sau đó bán chuyển tay. Những người tham gia từ phía Liên Xô sẽ được hưởng lợi nhuận hậu hĩnh từ khoản doanh lợi kếch xù được gửi vào tài khoản ngân hàng Thuỵ Sĩ. Hành vi buôn lậu này diễn ra trong suốt 10 năm. Kết quả điều tra cho thấy, vụ án này làm Liên Xô tổn thất hàng triệu USD, hơn 300 người dính líu vụ án.

Trong đó, có những quan chức cấp cao như Thứ trưởng Ngư nghiệp, Phó Cục trưởng Sản xuất, Tiêu thụ, Quản lý ngư nghiệp cùng các cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại thương, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Hạm đội Thái Bình Dương, rồi nhân viên cửa hàng tại Moscow và các thành phố khác. Người chịu trách nhiệm phân phối loại sản phẩm đóng hộp này là thị trưởng thành phố Sochi - Volokov, Bí thư thứ nhất Khu ủy Krasnodar trực tiếp quản hạt Sochi là Maidunov. Ông ta là người thân tín của Brezhnev. Khi được lệnh tham gia điều tra vụ án, ông ta đã ra sức bao che cho Volokov. Sau khi báo Văn học đăng tin Volokov bị bắt, Maidunov rất lo lắng, nhiều lần đã lên Moscow cầu cứu Brezhnev.

Do mức độ nghiêm trọng của vụ án, Chủ tịch KGB là Andropov đích thân báo cáo vụ việc này với Brezhnev. Trước một loạt chứng cớ rõ ràng, Brezhnev hỏi: "Theo đồng chí nên giải quyết thế nào?". Andropov đáp: Vụ này phải đưa Maidunov ra tòa. Brezhnev bảo: Làm thế không được. Bây giờ chúng ta không có người đáng tin cậy ở Krasondur, liệu có thể tạm thời thuyên chuyển Maidunov đến nơi khác được không? Sau đó Maidunov mặc dù bị cách chức nhưng lại được điều lên Moscow làm Thứ trưởng Bộ Lương thực Thực phẩm, được sống trong một căn hộ sang trọng tại Moscow. Câu chuyện đã kết thúc một cách "êm đẹp" như thế...

Tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô trước hết là xuất phát từ chức tước. Có người cho rằng, chức tước càng cao thì đặc quyền càng nhiều, nếu muốn làm quan hoặc thăng chức thì phải lấy lòng, hối lộ các lãnh đạo liên quan. Chức tước vì thế mà có giá. Tại một số nơi, ngay cả chức bí thư đảng ủy cũng có giá. Năm 1969, chức bí thư thứ nhất của một khu ủy Azerbaijan có giá 200 nghìn rúp, bí thư thứ hai có giá 100 nghìn rúp. Hiện tượng mua quan, bán tước cũng tồn tại ở các nước cộng hoà khác trong Liên bang với các hình thức, mức độ khác nhau.

Hội nghị toàn thể tháng 2 năm 1973, TƯ Đảng Gruzia từng chỉ rõ: Trước đây, công tác tuyển chọn và sử dụng cán bộ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc của Chủ nghĩa Lenin. Việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo không phải căn cứ vào năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của họ, mà dựa vào thao túng đằng sau, dựa vào quan hệ quen thân gia đình, dựa trên nguyên tắc có trung thành với cá nhân cấp trên hay không.

Để bảo vệ những lợi ích hiện có, tầng lớp đặc quyền chống lại bất cứ sự cải cách nào ảnh hưởng đến đặc quyền của mình. Bởi vậy, không thể chủ động ngăn chặn tình trạng tham nhũng đang lan tràn trong toàn Đảng, toàn xã hội. Brezhnev lạnh lùng với từ "cải tổ" rằng: Cải cái gì, cứ làm tốt công việc là được rồi.

Cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và trợ lý của ông soạn thảo một báo cáo về cải tổ kinh tế gây nên sự bất mãn và tẩy chay của một bộ phận các tầng lớp đặc quyền quan liêu. Kết quả, trợ lý của ông bị cách chức.

Tầng lớp đặc quyền đã làm tổn hại nghiêm trọng thanh danh của CNXH, tạo ra hố ngăn cách lớn trong xã hội, làm hư hỏng xã hội. Khoảng cách giữa người dân bình thường và tầng lớp đặc quyền ngày càng lớn. Trong xã hội Liên Xô, người dân bình thường tự gọi mình là "chúng ta", còn gọi những người đặc quyền là "bọn họ". Thế nhưng, khi nói đến tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô, chúng ta phải nhấn mạnh mấy điểm sau đây:

- Thứ nhất: Tầng lớp đặc quyền chỉ là khái niệm đặc chỉ đối với một bộ phận cực nhỏ các phần tử thoái hoá, biến chất lạm dụng chức vụ mưu lợi riêng trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô khi đó. Việc phương Tây gọi 600 - 700 nghìn cán bộ, đảng viên Đảng CS Liên Xô khi đó là tầng lớp đặc quyền hoàn toàn là sự tuyên truyền rắp tâm nhằm phá hoại Đảng CS Liên Xô. Nhìn chung, đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng CS Liên Xô khi đó đều là những người liêm khiết, chí công, hăng hái cống hiến. Họ kiên định đi theo con đường XHCN.

- Thứ hai: Phải phân biệt sự chênh lệch hợp lý với đặc quyền trong lĩnh vực phân phối. Khi đó, mặc dù trong nội bộ Đảng CS Liên Xô và trong xã hội Liên Xô tồn tại tầng lớp đặc quyền và hiện tượng đặc quyền nghiêm trọng, nhưng đồng thời với nó là chủ nghĩa bình quân theo kiểu "ăn chung nồi" tồn tại nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối của Liên Xô.

- Thứ ba: Không chỉ chú ý đến hiện tượng độc quyền tồn tại trong lĩnh vực phân phối mà phải chú ý đến hơn biểu hiện của hiện tượng này trong lĩnh vực khác như: xây dựng chính sách, bổ nhiệm cán bộ, uốn cong luật pháp để mưu lợi riêng cho bản thân và tập đoàn nhỏ đồng thời né tránh sự giám sát của kỷ luật Đảng và quy định pháp luật. Điều này còn nghiêm trọng hơn vì nó phá hoại mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, dẫn đến sự thay đổi tính chất của Đảng. Căn bệnh này càng bộc lộ rõ hơn dưới thời Gorbachev.

Tham quan một biệt thự, là nơi ở cũ của của Gorbachev trước khi ông ta lên nắm quyền, chúng ta thấy như sau: Qua cửa chính là một sảnh rộng. Tầng một có ban công bọc kính và phòng chiếu phim, chiếc bàn ăn dài 10m, phòng bếp giống như một xưởng chế biến thức ăn lớn, còn có một tủ lạnh ngầm dưới đất. Trên tầng hai, đi qua sảnh lớn là tới thẳng phòng tắm nắng, văn phòng, phòng ngủ. Mọi thứ bày biện và trang trí trong tòa biệt thự đều hết sức xa xỉ. Xét về một ý nghĩa nào đó thì cuộc sống cá nhân xa hoa tột đỉnh này còn xa mới bộc lộ được bản chất cuộc sống của tầng lớp đặc quyền. Cái gọi là "cải tổ" của Gorbachev sau khi lên nắm quyền đã trở thành chất xúc tác để tầng lớp đặc quyền chuyển biến thành giai cấp tư sản mới. Sự cải tổ rùm beng là cơ hội tuyệt vời để tầng lớp đặc quyền tha hồ mưu lợi cá nhân.

Dưới thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền đã không còn thỏa mãn với việc theo đuổi hưởng thụ cá nhân, mà còn mong muốn chiếm hữu lâu dài mọi đặc quyền hiện có. Thậm chí còn để lại cho con cháu đời sau. Đồng thời, tầng lớp đặc quyền còn phát hiện ra rằng CNXH, lòng tin vào CNCS thường trực nơi cửa miệng và ánh hào quang đảng viên Đảng CS mà họ mang trên mình đã không còn giá trị sử dụng. Họ thấy rằng, những đặc quyền mà họ vốn có phải được thay đổi hình hài và CNTB là chế độ thích hợp nhất để hợp pháp hóa những lợi ích hiện có của họ. Đặc biệt, trong lúc Đảng CS Liên Xô và đất nước đang đứng trước nguy cơ tồn vong. Giữ vững lợi ích đặc biệt của mình và hợp pháp hoá chúng, tầng lớp đặc quyền đã không ngần ngại lột bỏ mặt nạ, công khai thúc đẩy vứt bỏ CNXH đi theo con đường của CNTB, tư hữu hoá toàn diện.

Trong thời gian này, tầng lớp đặc quyền lợi dụng quyền lực đang nắm trong tay để ra sức vơ vét, làm giàu cho bản thân. Nhất là các vị quan kinh tế trực tiếp quản lý tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương mại hoá, thị trường hoá, kinh tế tự do hoá do Gorbachev tiến hành để làm một cuộc lật bài kinh tế, trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản riêng. Có kẻ thực hiện các cuộc giao dịch giữa quyền - tiền để có những ưu đãi và quota xuất khẩu nguyên liệu và vũ khí, bòn rút tài sản xã hội. Có kẻ thu siêu lợi trong các cuộc giao dịch chứng khoán, hàng hóa trả chậm rồi thành lập ngân hàng và các cơ quan tài chính khác. Một bộ phận thiểu số đó, sau này, trở thành những ông trùm tài chính mới.

Năm 1991, trong số hàng vạn triệu phú ở Moscow, đại bộ phận nguyên là những cán bộ làm việc trong các cơ quan Đảng, chính quyền. Kết quả điều tra tiến hàng trong tháng 6 năm đó cho thấy, trong tầng lớp cán bộ cao cấp Liên Xô có tới 76,7 % số người cho rằng nên đi theo con đường tư bản. Chính những kẻ gọi là đảng viên Đảng CS này đã làm cách mạng bằng cách "cách đi cái mạng của Đảng CS Liên Xô". Bọn họ không chỉ vơ vét cho đầy túi tham mà còn tiếp tục nắm giữ những cương vị cao, kiểm soát quyền lực của nhà nước.

Nước Nga sau khi Liên Xô sụp đổ, ngoại trừ một số ít nhân vật ngự trên đỉnh ngọn kim tự tháp quyền lực, còn lại một phần cán bộ biến thành những "quý nhân" của nước Nga. Họ chiếm 75% số quan chức bên cạnh tân tổng thống; 57,1% trong số lãnh tụ những chính đảng mới và 73,4 % trong số những quan chức của chính phủ mới.

Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ David Code có một câu nói có thể gọi là "đúng tim đen": Đảng CS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình. Trước khi Đảng CS Liên Xô sụp đổ không lâu đã có một cuộc điều tra dân ý về chủ đề: "Đảng CS Liên Xô đại diện cho ai?". Kết quả là, số người cho rằng Đảng CS Liên Xô đại diện cho nhân dân Liên Xô chiếm 7%, đại diện cho công nhân chiếm 4%, đại diện cho toàn thể đảng viên chiếm 11%. Trong khi đó, có tới 85% số người được hỏi cho rằng: Đảng CS Liên Xô đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước.

Sự hình thành và phát triển của tầng lớp đặc quyền trong Đảng CS Liên Xô đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài. Trong giai đoạn này, những kẻ tham nhũng lộ liễu hay lén lút đều tham lam chiếm đoạt tài sản nhà nước thuộc sở hữu của nhân dân. Trong khi đó, đối với tầng lớp đặc quyền, Đảng CS Liên Xô đã đi từ chỗ ít ngăn chặn đến không tấn công, rồi bao che, thậm chí dung túng, khiến cho khối u ác tính này phát triển và lây lan nhanh chóng trên chính cơ thể của mình.

Khi Đảng CS Liên Xô đã bị khối u ác tính làm cho thối rữa, biến chất thì bản thân nó bị nhân dân phỉ nhổ.

http://tuanvietnam.net/2010-08-16-tang-lop-dac-quyen-cua-dang-cs-lien-xo-
http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=45&sub=84&article=181002

http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=45&sub=84&article=181321

Monday 9 August 2010

Tư liệu (2)

Tiếp tục những ghi chép các cuộc trò chuyện của Vương Trí Nhàn với Nguyễn Đình Nghi.

Nguyễn Đình Nghi (3)


TIẾP TỤC CÂU CHUYỆN VĂN NGHỆ KHÁNG CHIẾN

Năm 1947, tình hình gay go lắm. Pháp nhảy dù Việt Bắc, quây một mẻ, tí nữa bắt được Trung ương của mình. Và cụ Nguyễn Văn Tố bị bắt. Thời ấy, Nguyễn Huy Tưởng hoang mang cực độ. Tôi còn nhớ những phát biểu của ông ấy cơ mà.

Thế rồi về sau ta lại gượng dậy được, lại đánh cho đến Điện Biên.

Vậy thì cái gì đã xảy ra?

Tôi đọc lại những gì bố tôi đã ghi trong kháng chiến, và nhận thấy cuộc kháng chiến chống Pháp là ghê gớm thật. Từ đó, từ những ai đã đi với kháng chiến rồi, sẽ ra một loại người khác, không bao giờ thay đổi nữa.

Kháng chiến là một sự nghiệp lớn lao, và hầu như mọi người văn nghệ sĩ đều chân thành đi theo kháng chiến.

Không ai khác, chính ông Tuân là một người rất ghét những anh sợ gian khổ bỏ kháng chiến.

Đỗ Đức Thu vốn là bạn thân với Nguyễn Tuân, ở trong thành, chỉ làm cái việc của ông Nguyễn Xiển là khí tượng thuỷ văn thôi, mà ông Nguyễn Tuân ông ấy cũng xỏ xiên:

- Đo gió cho nó, để máy bay lên Việt Bắc nó ném bom cho được thuận tiện.

Còn nhớ cái hôm ấy, tôi đang đọc tờ báo ở trong thành tường thuật chuyện Đoàn Phú Tứ dinh tê -- Đoàn Phú Tứ nói rằng một chế độ mà đã coi rẻ nền văn hoá dân tộc như thế, thì phải từ bỏ để trở về với chính nghĩa quốc gia thì Nguyễn Tuân cũng ngồi đấy, Nguyễn Tuân gật gù:

- Tức là lúc ấy đã hút thuốc phiện thật đẫy rồi, nên mới nói như thế này đây mà.

Ông Tô Hoài, ông Tưởng, ông Thi, hồi ấy là những cốt cán, ông Tô Hoài hóm hỉnh và ranh mãnh như thế, nhưng nói về chính sách không ai là không thấy hay. Ông Thi thì rất nồng nhiệt.

Ông Tưởng biết tất cả, nhưng với tư cách là người phụ trách, lại phải làm nhiều việc trái ý muốn. Tôi nhớ, lần ấy tổ chức Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua. Cả ba ông ấy đều được đi dự, mỗi ông trở về nói một ấn tượng.

Ông Tô Hoài chưa thôi khó chịu về những lời phát biểu của Nguyễn Mạnh Tường.

- Có cái tiếng hão là đại trí thức nên người ta mới mời phát biểu. Thế mà lão ấy mở đầu bằng một câu bông lơn nhảm nhí, không ai nghe nổi "Thưa các ngài, bao nhiêu điều hay ho tôi định nói, thì người phát biểu trước tôi đã phỗng tay trên mất rồi"

Ông Thi khoe:

-- Được nghe những lời tâm huyết của đại biểu, mình thấy cái dự trữ phấn khởi cách mạng của mình - ông dùng tiếng Pháp - được tích luỹ thêm rất nhiều.

Ông Tưởng thì mộc mạc hơn, ông Tưởng kể ví dụ như Nguyễn Quang Vinh, còn anh hùng cá nhân ra sao, lúc nào cũng vỗ ngực ta lập công, ta lập công ra sao. Có một câu Quang Vinh quang vinh đi đâu nói chuyện gì cũng nhắc đi nhắc lại.

Tôi thắc mắc với ông Tưởng, thế thì ngược hẳn với những điều anh viết về anh ta trong xê-ri chuyện các chiến sĩ. Thậm chí tôi còn nói cái truyện ông Tưởng mới viết xong là giả, không có chiến sĩ nào nghĩ thế.

Ông Tưởng bảo: Nhưng viết như cậu hình dung, thì không thể in được.

Đấy, các ông ấy tự buộc mình giả, giả một cách tự nhiên như thế đấy. Giả là bản chất thứ hai của con người.

Nhân đây tôi cũng hiểu thế nào là văn học cách mạng.

Một người như Hoài Thanh lúc ấy cực đoan lắm. Có lần, nhân nghe mọi người nói về vở Đề Thám, tôi mới nói lại gì đó (nói vui ở nhà thôi, chứ mặt tôi đâu được dự hội nghị) thế là ông Hoài Thanh nói ngay:

- Cái cách Nghi vừa nói, có cái chất khinh bạc và chế giễu, nó là thuộc về một giai cấp đang suy tàn chứ không phải của một người thanh niên mới lớn.

Và thế là, sau đó, các ông ấy chuyển tôi khỏi Ban văn của Hội văn nghệ - tôi làm thư ký ban ấy - để về một nơi khác. Vì các ông ấy cho là sở dĩ tôi cũ, tôi hỏng như thế, vì tôi ở gần ông Phan Khôi, ông Ngô Tất Tố.

Do chưa bao giờ ở gần nhau như thế, nên mấy ông văn nghệ sĩ này lại nhận ra cái chỗ vớ vẩn, chỗ buồn cười của nhau nhanh lắm.

Xuân Diệu có bài thơ Một sớm mai hồng… gì đó, ông Tứ mang ra giễu mãi. Đến lượt vở Trở về của ông Tứ, thì Xuân Diệu, dưới bút danh Trảo Nha, còn viết cả một bài trên báo Độc lập của Đảng Dân chủ, chê là đến cái chính trị tối thiểu như thế, mà Đoàn Phú Tứ cũng không hiểu, và Trở về là một vở nhạt.

Phan Khôi chê Ngô Tất Tố, Ngô Tất Tố chê Phan Khôi, cái đó dễ hiểu rồi. Nhưng cả hai cụ nhìn những người khác, thì lại cùng nhận ra những lố bịch của họ.

Chẳng hạn, có lần Ngô Tất Tố sang chỗ Anh Thơ chơi, trở về mới kể là mình vừa liếc mắt nhìn cái thời gian biểu của bà ấy. Trong số công việc một ngày của Anh Thơ, việc cuối cùng được nêu là tắm trăng.

Và thế là cả Ngô Tất Tố lẫn Phan Khôi cùng lăn ra cười.

Về việc Ngô Tất Tố vào Đảng. Một lần Ngô Tất Tố đang ở nhà thì có người gọi đi họp, buổi họp chuẩn bị để hôm sau kết nạp ông vào Đảng. Thì ra một con trai của ông là du kích ở quê nhà, có tin là vừa hy sinh.

Chính Ngô Tất Tố hay kể với mọi người như vậy.

Suốt nửa đầu thế kỷ, cả dân tộc này chỉ lo chuyện đánh tây, nên lúc ông Cộng sản ông ấy đánh được Tây thì cũng tức là uy quyền ghê lắm.

Bao nhiêu văn nghệ sĩ mình, cả loại cứng đầu như Nguyễn Tuân, cả loại rã rượu như Lưu Trọng Lư đều bị ông ấy thu phục cả.

Sau những cuộc chỉnh huấn hồi ở Việt Bắc, có lần tôi buột miệng:

- Tôi cảm thấy bao nhiêu sách vở đều vứt đi hết.

Có người nói ngay:

- Không vứt đi hết đâu, nếu anh biết dùng nó trên một lập trường giai cấp.

Thế mới sợ chứ.

Nghĩa là giống như đạo Thiên chúa: tìm tòi khoa học tha hồ, miễn là chứng minh rằng có Chúa.

Người nói với tôi câu trên là anh Trọng Hứa.

Hồi ở Việt Bắc, có một danh hiệu mà anh em hay chỉ Trọng Hứa: Bần. Nó bắt nguồn từ truyện Thằng Bần mà Trọng Hứa viết hồi ở Tiên Phong. Nhưng nó còn có cái ngụ ý, ông ấy già lắm, cũ lắm, loại bần mà lại.

Có cái truyện ngắn Gợi khổ được Tố Hữu khen, đi đâu cũng khoe.

Nhưng sự thật là một người nhạt nhẽo mà lại đồng bóng.


TẠI SAO NGHỆ SĨ ĐẾN VỚI CÁCH MẠNG?

Con người ta trước Cách mạng là một cái gì cũng lạ lắm. Nghĩa là cũng đầy mâu thuẫn. Bây giờ đã thân với nhau rồi, tôi có thể kể hết với anh thế này.

Ông bố tôi - mà tôi yêu kính - là người như thế nào? Ông ấy rất nghiêm khắc trong ăn mặc, trong cư xử, tóm lại là một người rất hiểu đạo thánh hiền chứ gì. Nhưng ông ấy nghiện hút, và trong khi mải làm kịch, ông ấy bỏ lửng bà mẹ tôi, để sống với bà Song Kim.

Anh không thể tưởng tượng là thời ấy, chúng tôi - một thiếu niên như tôi --khổ về những lề thói cũ đến mức nào. Tôi sống với bà nội, một bà già ngoan đạo, và tôi đã thấy bà tôi hành hạ mẹ tôi hành hạ về mặt tinh thần, nó kinh khủng, nó làm cho tôi không bao giờ thấy cuộc đời là tự nhiên, là bình thường nữa (ấy những lúc tôi phẫn uất quá, thì bố tôi lại tâm sự với tôi, giảng giải cho tôi là phải nhẫn nại, phải cam chịu)

Trong hoàn cảnh ấy, văn minh phương Tây hiện ra như một hứa hẹn giải phóng.

Nhưng, dù yêu văn minh Pháp đến vậy, người ta, tức là bọn tôi lúc ấy, vẫn không thể chịu được sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam. Ở trường, một học sinh láo, dám chửi mấy Tây, giám thị Tây là một học sinh được cả trường suy tôn như một anh hùng.

Ông bố tôi, là người cũng được ân sủng của văn hoá Pháp chứ gì? Văn hoá thì ông ấy nhận, chứ người Pháp ông ấy không chịu. Một lần nào đó, tôi buột miệng ông Tây bà đầm, ông ấy chữa ngay thằng Tây con đầm. Lại như cái lần tôi học được bài Le mac-xây-e hát cho ông ấy nghe, ông ấy nói ngay: - Nghe xong bài này rất muốn diệt hết Pháp.

Có thể nói rằng rất khó cắt nghĩa thái độ của những người như ông bố tôi với cách mạng.

Một mặt thì ông biết hết, biết rằng mình đang sống trong một hoàn cảnh như thế nào. Có lần ông bảo:

- Cái chủ nghĩa tập thể như hiện nay, làm cho con người ích kỷ hơn bao giờ hết. Tức là nó chỉ càng đẩy người ta tới chủ nghĩa cá nhân.

Lại một lần khác.

- Bố hiểu rằng bố đang “được” cách mạng lợi dụng.

Nhưng ông cũng nói ngay:

- Có điều, trong hoàn cảnh này, bố chấp nhận sự lợi dụng đó.

Nhân có việc, tạp chí Hợp Lưu ở ngoài đăng lại bài Thế Lữ viết về Phan Khôi, lần đầu in ở báo Nhân Dân, 4-58, Nguyễn Đình Nghi bảo:

- Hồi ấy, mà không viết lôi thôi to ấy chứ.

Về mối quan hệ của Thế Lữ với Xuân Diệu.

Khoảng 1982-83 gì đấy, khi Thế Lữ tuyển tập được in ra, nhân một cuộc họp ở Hội Nhà văn, ông Tuân mới bảo tôi:

- Này ông Nghi ạ, thì ra bây giờ ông Diệu ông ấy đã phải công nhận công lao của bố ông rồi đấy.

Chả là trong Thế Lữ tuyển tập có bài Xuân Diệu ghi hộ ít đoạn học ký của Thế Lữ, để đền đáp sự tận tình của Thế Lữ lúc Xuân Diệu mới bước vào văn đàn.

Nhưng mà hồi kháng chiến thì đâu có vậy.

Nét đặc biệt trong tính cách của Xuân Diệu là khi cần, rất tha thiết sau lại phủi tay ngay. Ngay từ trước 1945, ông ấy đã phủi tay với đám Tự Lực rồi cơ mà.

Thơ thơ lần đầu, do Đời Nay in 1938, còn đề rõ Xuân Diệu trong Tự lực văn đoàn.

Đến 1943, tái bản, đã bỏ rồi (bản NXB Huy Xuân)

Xuân Diệu hay nói với mọi người rằng hồi ấy, Tự lực thế to quá nên mình phải làm thế, để có thể đến với văn học (Nhàn: xem bài của Bùi Hiển trong tập sách Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học 1945-54)

Nhưng một lần tôi nghe ông bố tôi nói với một người bạn.

- Lúc vào nghề, Xuân Diệu quỵ luỵ với mình lắm.

Một lần họp ở Việt Bắc, Huy Cận phát biểu:

- Tự lực văn đoàn không hề có công trong việc đào tạo tài năng.

- Thế Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyên Hồng thì sao? - Bố tôi hỏi lại.

- À, trong câu hỏi của anh Thế Lữ đã có sẵn câu trả lời rồi -- Huy Cận ứng đối ngay.

Tôi mới viết một bài về sân khấu dân tộc, đại ý là:

- Sân khấu dân tộc phải cảm ơn cách mạng lắm. Vì nhờ có cách mạng, sân khấu dân tộc mới được hồi sinh.

- Nhưng lạ một cái, sân khấu dân tộc là con nuôi thì còn, mà sân khấu cách mạng là con đẻ thì mất. Anh có nhận thấy, mấy chục năm nay, các vở của ta, được hoan nghênh một thời, rồi chết luôn. Không ai nghĩ lại mang những Bắc Sơn, Chị Hoà, Đại đội trưởng của tôi dựng lại thành kịch mục thường xuyên ở các nhà hát.

Thế thì tại sao? Vì chúng ta coi sân khấu là công cụ. Mà công cụ dùng xong thì bỏ đi. Đấy là sân khấu cách mạng. Còn như sân khấu dân tộc ấy ư, lúc ta tiếp nhận nó, ta xem nó như gia tài của cha ông để lại. Có lần, đầu 1973, cũng được mang sân khấu dân tộc đi Paris đấy chứ. Nhưng mang gì? Lưu Bình Dương Lễ ư? Vậy là dám nói rằng ở ta phổ biến chuyện vở cả vợ hai. Quan âm thị Kính ư? Phụ nữ ta toàn lẳng lơ như cô Màu? Không được không mang đi đâu cả. Thế là sân khấu dân tộc thoát kiếp công cụ.

Anh bảo viết hồi ký, nhưng làm sao mà viết được. Bây giờ tôi ngồi tôi viết ra những đoạn tôi kể với anh thì ai người ta in? Còn nếu như viết lăng nhăng thì viết làm gì, tiền bạc được là bao?!

Nhưng nghĩ cho cùng, trở ngại chính là cái lý do tôi vừa nói, văn nghệ ở ta, mấy chục năm qua, chỉ là một thứ công cụ. Mà công cụ thì làm gì có sự tồn tại độc lập, làm gì có quá khứ, làm gì có trí nhớ, làm gì có lịch sử.

Một người như Cụ Hồ chẳng hạn, tất cả mỗi công việc cụ làm, đều là vì cái mục đích trước mắt hết.

Người ta đã nói đủ thứ chung quanh Nhật ký trong tù. Nhưng tôi nhớ một ý của Đặng Thai Mai

- Không bao giờ Cụ Hồ làm gì, mà không có mục đích cả.

Ông Cụ không định làm thơ để đời, để trở thành thi nhân. Nhật ký trong tù chỉ có một lý do khiến nó phải được viết ra: nó là bộc bạch của một người tù với những kẻ giam hãm người tù ấy, rằng ta chả có lỗi gì cả, phải cho ta ra để ta còn trở về với công việc của ta ở Việt Nam.


14-2-2001

Nguyễn Đình Nghi mất 8h15 ngày 9-2 (17 tháng giêng). Đám ma 14-2-2001.

Theo lời những người trong gia đình, ông Nghi rất tỉnh. Bàn với vợ, nếu mình chết, trong cáo phó bỏ hết những chức tước, đơn vị đi, bỏ hết các giải thưởng chỉ ghi Nghệ sĩ là đủ, mà không cũng được.

Vợ: Hay ghi Đạo diễn nhân dân Nguyễn Đình Nghi.

--Thế thì hay quá!

Ông chọn cả cái ảnh sẽ để vào quan tài, và dặn không mua thứ áo quan có mặt kính (không muốn cho ai nhìn lần cuối).

Câu cuối cùng ông kêu lên: Trời ơi, sao mình yếu thế nhỉ! Và đi.

Tôi nói với Nguyễn Văn Thành: Anh Nghi những ngày cuối cùng này, gợi cho tôi một cảm giác đã cỗi, như đã thiu ra, đã khô lại.

Chúng ta thường xem truyền hình, thấy bọn Iraq nó thiếu ăn thiếu thuốc men, kinh khủng ra sao. Mà Việt Nam suốt thời chiến tranh lại chẳng bị tách rời khỏi thế giới như nó hay sao? Hơn nữa ta tự giam hãm mình vào đấy, chứ không phải bị ai cấm đoán.

Ông Nghi thì ở trong căn phòng không có ánh sáng, như cái cây bị ốm, không tiếp nhận được cái gì mới nữa.

Thành kể tiếp về ông Nghi:

- Hai lần từ chối cục trưởng, Nghi không làm quan và muốn chứng tỏ con đường sống riêng của mình. Nhưng lương và nhà thì ông đấu tranh bằng được.

- Vẫn có cái nhỏ mọn và sợ sệt chứ. Mấy năm trước, Pháp nó định tặng cho ông cái danh dự bội tinh (hay là cái huân chương nào đấy), nhân danh một người trí thức tự do, nhưng ông không dám nhận, vì nó cho chung với Dương Thu Hương một đợt. Ông bảo cho riêng thì nhận.

- Cũng có cái ức, dẫn đoàn khi Việt Nam đi Mỹ đấy. Ông ấy là người thiết kế chương trình quan hệ sân khấu với Mỹ nhưng chỉ được đi khảo sát một lần, lần sau ở nhà, ông ức lắm.

- Trong cuộc đời riêng, lẽ ra vì bệnh tật Nguyễn Đình Nghi chết từ kháng chiến chống Pháp rồi --- vậy mà ông còn sống được. Ở ông có chất một người theo đạo nhẫn nại, người trí thức nghèo ham hố nhưng cũng tự hạn chế, luôn dằn vặt mình, liêm khiết, tự trọng, nhưng cũng đau đớn thiệt thòi vì sự tự trọng đó đem lại.

Tôi rất muốn viết như mọi người rằng Nguyễn Đình Nghi ra đi trong thanh thản. Nhưng sự thật là ông ra đi trong sự dở dang tiếc nuối, vừa muốn làm khác vừa biết rằng mình không thể khác.

Đã trích in trên tạp chí Sân khấu các số 8-9/2009

Chỉnh lý lần cuối 31-7-2010
 
VƯƠNG TRÍ NHÀN

XIN

Ai đọc đầu đề này sẽ không hiểu gì hết. Chỉ vì newsreader Quang Minh (ngày 8.8.2010) phát âm VINASHIN thành VI-NA-XIN nên lưu cái quyết định này kèm theo nguyên văn nội dung dưới đây.

Cập nhật 03:59 ngày 09-08-2010


Bộ Chính trị kết luận về Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam

--------------------------------------------------------------------------------

ND - Tại phiên họp ngày 31-7-2010, sau khi nghe Ban cán sự đảng Chính phủ báo cáo về tình hình Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), ý kiến của Văn phòng Trung ương Ðảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Bộ Công an và một số bộ, ngành Trung ương; Bộ Chính trị đã thảo luận và kết luận như sau:

1 - Từ khi được thành lập vào năm 1996 đến nay, Tập đoàn Vinashin (trong đó từ năm 1996 đến năm 2006 là Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam) đã có bước phát triển nhanh trên nhiều mặt: Bước đầu đã hình thành được cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, có trình độ công nghệ tiên tiến và khá đồng bộ của ngành công nghiệp đóng, sửa chữa tàu biển; xây dựng được đội ngũ trên 70.000 cán bộ, công nhân kỹ thuật, trong đó nhiều người có tay nghề khá, có khả năng đóng được nhiều loại tàu phục vụ cho nhu cầu đa dạng và ngày càng cao của nền kinh tế, quốc phòng, an ninh và cho xuất khẩu, kể cả tàu trọng tải trên 100.000 DWT; xây dựng được một số cơ sở công nghiệp phụ trợ, nâng cao một bước tỷ lệ nội địa hóa trong đóng và sửa chữa tàu biển. Riêng trong thời kỳ từ năm 1996 - 2006, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao (bình quân 35% - 40%/năm), kinh doanh có lãi; tăng được vốn chủ sở hữu và giá trị tài sản của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, hiện nay, Vinashin đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu kém, sai phạm nghiêm trọng: (1) Ðầu tư mở rộng quá nhanh, quy mô lớn, một số dự án trái với quy hoạch được phê duyệt, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn, có lĩnh vực không liên quan đến công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển, trong đó nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, có nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề. (2) Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản: Theo số liệu ban đầu, ước tính dư nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỷ đồng; nợ đến hạn phải trả khoảng trên 14.000 tỷ đồng; tỷ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu gấp gần 11 lần, khó có khả năng tự cân đối dòng tiền. (3) Sản xuất, kinh doanh hiện đang bị đình trệ; bị mất hoặc giảm nhiều đơn đặt hàng; nhiều dự án đầu tư dở dang, không hiệu quả. (4) Tình hình nội bộ diễn biến phức tạp: Hơn 70.000 cán bộ, công nhân viên lo lắng do việc làm và thu nhập giảm; hiện đã có khoảng 17.000 công nhân chuyển việc hoặc bỏ việc; 5.000 công nhân bị mất việc làm; nhiều công nhân của một số nhà máy, xí nghiệp bị chậm trả lương trong nhiều tháng...

Mặc dù vẫn trong tầm kiểm soát và có thể khắc phục được, nhưng nếu không có các chính sách, biện pháp đúng đắn, kịp thời, tình hình của Vinashin có thể ảnh hưởng xấu đến các tổ chức tín dụng, các đơn vị được nhận chuyển giao, ngân sách Nhà nước, sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế, việc làm và thu nhập của cán bộ, công nhân Tập đoàn và nhiều hộ gia đình nông dân nơi có đất bị thu hồi; ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với chủ trương của Ðảng và Nhà nước về phát triển doanh nghiệp nhà nước và mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước; tác động tiêu cực đến ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

2- Những hạn chế, yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, song nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trước hết thuộc về trách nhiệm trực tiếp của Hội đồng Quản trị và Ban Lãnh đạo Tập đoàn, trong đó có cá nhân Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn và trách nhiệm của một số cơ quan quản lý nhà nước có liên quan ở Trung ương và địa phương; cụ thể và chủ yếu là:

Về nguyên nhân chủ quan:

- Trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Công ty mẹ và các đơn vị thành viên của Vinashin chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị một tập đoàn kinh tế lớn, đặc biệt là người đứng đầu còn hạn chế về năng lực, có biểu hiện thiếu trách nhiệm, tùy tiện, cá nhân, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước, quyết định của Thủ tướng Chính phủ khi chỉ đạo các hoạt động đầu tư, dự án, vốn cho sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và bố trí cán bộ. Lãnh đạo Tập đoàn, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu với chức năng đại diện trực tiếp chủ sở hữu đã có nhiều khuyết điểm, sai lầm trong tổ chức, quản lý, điều hành, nhất là trong việc xác định lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, tổ chức quản lý các công ty con, công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ; trong một thời gian ngắn đã mở rộng quá nhanh quy mô tập đoàn, nhất là mở ra rất nhiều công ty con, công ty liên kết; mở sang một số lĩnh vực không phải là những chuyên ngành phục vụ cho nhiệm vụ chính của mình. Tập đoàn đã chậm xây dựng Ðiều lệ hoạt động và các quy định quản lý tài chính khác, như: quy chế quản lý tài chính, quy chế quản lý đầu tư xây dựng, các định mức kinh tế kỹ thuật...

- Một số cơ quan tham mưu liên quan thuộc Chính phủ, một số địa phương và một số cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát ở Trung ương có thiếu sót, khuyết điểm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với Tập đoàn; chưa sát sao giám sát, kiểm tra chặt chẽ và đánh giá đúng, kịp thời về công tác tổ chức, cán bộ và tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện định hướng chiến lược phát triển của Tập đoàn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và Kết luận số 45-KL/TW ngày 10-4-2009 của Bộ Chính trị về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế; đến nay vẫn chưa phê duyệt được Ðiều lệ tổ chức, hoạt động và Quy chế quản lý tài chính của Công ty mẹ - Tập đoàn Vinashin; từ năm 2006 - 2009 tuy đã qua 11 lần kiểm toán, kiểm tra, thanh tra nhưng vẫn không phát hiện được đầy đủ, kết luận đúng tình hình và những yếu kém, khuyết điểm nghiêm trọng của Tập đoàn, chưa đưa ra được những biện pháp chấn chỉnh, ngăn chặn, xử lý kịp thời, có hiệu quả, mặc dù những biểu hiện về những khó khăn, khuyết điểm của Vinashin đã được cơ quan thông tin đại chúng và dư luận phản ánh, cảnh báo từ sớm và nhiều lần.

Về nguyên nhân khách quan:

- Mô hình Tập đoàn còn đang trong giai đoạn thí điểm, chưa có sơ kết, tổng kết, đánh giá hiệu quả; thể chế, cơ chế còn thiếu hoặc chưa đồng bộ.

- Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới gần đây đã ảnh hưởng nặng nề đến phát triển ngành công nghiệp đóng tàu, vận tải biển, trong đó có Vinashin.

3- Ðể khắc phục có hiệu quả những khuyết điểm, sai phạm trên đây của Vinashin, Bộ Chính trị giao:

3.1- Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì chỉ đạo:

- Phát huy những kết quả đã đạt được của Vinashin trong nhiều năm qua; tiếp tục khẳng định công nghiệp cơ khí chế tạo là ngành trọng điểm trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển là ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế hàng hải và thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và những năm tiếp theo. Khẩn trương cơ cấu lại Tập đoàn Vinashin theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và Kết luận số 45-KL/TW ngày 10-4-2009 của Bộ Chính trị về việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế; chỉ tập trung vào 3 lĩnh vực chính là: Công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển với quy mô phù hợp; công nghiệp phụ trợ phục vụ cho việc đóng và sửa chữa tàu biển; đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ, công nhân công nghiệp tàu biển. Sớm ổn định tổ chức sản xuất, kinh doanh; từng bước củng cố uy tín thương hiệu Tập đoàn Vinashin; cương quyết không để vỡ nợ, sụp đổ, gây tác động xấu đến sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu, mức độ tín nhiệm vay, trả nợ quốc tế và môi trường đầu tư của đất nước.

- Khẩn trương đánh giá lại chính xác, khách quan, trung thực tình hình hoạt động của Công ty mẹ Tập đoàn, các công ty con, công ty liên kết, các dự án đầu tư của Tập đoàn để có phương án sắp xếp, xử lý cụ thể, phù hợp, theo hướng: Chỉ giữ lại Tập đoàn Vinashin 3 lĩnh vực chính nói trên; bán, chuyển nhượng, chuyển giao, cổ phần hóa các lĩnh vực còn lại cho các tổ chức kinh tế và cá nhân khác có nhu cầu phù hợp pháp luật hiện hành, sớm thu hồi vốn để tập trung cho nhiệm vụ xây dựng ngành công nghiệp đóng tàu biển và trả nợ. Trong xử lý nợ và tăng vốn điều lệ của Tập đoàn, nhất là những khoản liên quan đến ngân sách nhà nước, Chính phủ cần có phương án khả thi, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. Trong quá trình giải quyết phải đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa các bên, không gây khó khăn, đổ vỡ cho các tập đoàn, tổng công ty khác cũng như các tổ chức tín dụng. Chú ý hạn chế tối đa thiệt hại và những ảnh hưởng tiêu cực về tư tưởng, tài sản và việc làm, thu nhập của công nhân, lao động.

- Giao các cơ quan chức năng sớm điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm minh, kịp thời, khách quan những cá nhân vi phạm pháp luật theo đúng quy định của pháp luật.

- Thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ làm Trưởng ban với thành phần gồm đại diện các bộ, ban, ngành có liên quan thuộc Chính phủ, một số cơ quan đảng (Văn phòng Trung ương Ðảng, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ðảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương). Giao Ban Chỉ đạo đầy đủ thẩm quyền và trách nhiệm theo quy định của pháp luật trong việc nghiên cứu, đề xuất, triển khai thực hiện các chính sách, biện pháp xử lý để sớm ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh của Tập đoàn.

- Ðồng thời, tiến hành tổ chức các hoạt động giám sát, kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng tình hình hiện nay và công khai, minh bạch tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước khác, trong đó chú ý kịp thời chấn chỉnh việc mở rộng đa ngành nhưng không liên quan đến ngành sản xuất chính của các đơn vị.

3.2- Ủy ban Kiểm tra Trung ương chủ trì phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo kiểm điểm những tổ chức và cá nhân có liên quan ở Trung ương và địa phương có thiếu sót, khuyết điểm trong việc quản lý nhà nước đối với Tập đoàn Vinashin, việc thực hiện chức năng tham mưu cho Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và chức năng đại diện chủ sở hữu đối với Tập đoàn Vinashin; thành lập các đoàn kiểm tra có sự tham gia của một số bộ, ngành liên quan để kiểm tra, giám sát việc xử lý các cá nhân sai phạm ở Tập đoàn Vinashin và các cơ quan, đơn vị phù hợp với quy định của Ðảng và pháp luật của Nhà nước.

3.3- Ðảng đoàn Quốc hội, Ðảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các cấp ủy đảng có liên quan ở Trung ương và địa phương có trách nhiệm phối hợp cùng các cơ quan của Chính phủ trong việc giám sát, thực hiện những chính sách, biện pháp phù hợp theo chủ trương trên đây để giúp Tập đoàn Vinashin sớm vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh, lấy lại uy tín của thương hiệu Vinashin và niềm tin vào sự phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu biển Việt Nam, của các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, trong đó có kinh tế biển.

4- Văn phòng Trung ương Ðảng, các ban đảng Trung ương phối hợp với Ban cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện Kết luận này; định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Wednesday 4 August 2010

Chúc mừng

NQT.

Tư liệu

Lưu bài này ở đây.

Vương Trí Nhàn ghi lại các cuộc trò chuyện với Nguyễn Đình Nghi:

Nguyễn Đình Nghi (2)

VÀI CHUYỆN THỜI SỰ VĂN NGHỆ


NHỮNG NĂM TRƯỚC 1986


Về Nguyễn Khải

Tôi đọc lời giới thiệu anh (V.T.N.) viết cho Tuyển tập Nguyễn Khải lần đầu thấy có vẻ hơi nghiệt. Nhưng lần này, đọc có kèm thêm cả tác phẩm của anh Khải, lại thấy nói như thế là vừa. Anh nên đi sâu thêm vào trường hợp này.

Thứ nhất, ông Khải không phải là người văn hay, hoặc độc đáo, như một Nguyễn Tuân hay Tô Hoài. Cái phong cách riêng trong văn không thật rõ, chỉ thấy một cảm giác sáng sủa mạch lạc, thế thôi. Những chỗ cần nói về những điều thật quan trọng của đời sống thì lại có vẻ nhiều lời, và tán ra quá rộng.

Thứ hai, đúng là hồi trước (1957-85) viết thế đã bạo, nhưng nhìn chung vẫn ngây thơ quá, bây giờ đọc lại thấy buồn cười.

Còn như bây giờ, dám đứng ra mà ca ngợi những kẻ lạc lõng thất bại, kể cũng đã là một cái gì khá hơn trước. Nhưng chỉ đến một thứ văn đọc được thôi, không thể gọi là có tầm triết lý gì cả.

Những thứ văn ấy không đạt đến tầm cỡ khiến nước ngoài người ta thực sự phải quan tâm nên không ai người ta muốn dịch. Cũng như không thể cho thời sau đọc - trừ những người học muốn đọc để hiểu thời này.

Suy cho cùng, Nguyễn Khải vẫn chỉ có thể gọi là người có năng khiếu, có tài. Nói thế là đủ.

Khải không phải là người theo đạo nhưng nói về đạo thấy được lắm ông ấy sống với người có đạo một cách kỹ lưỡng thấm thía như người có đạo thật vậy. Nhưng từ chuyện về đạo để nói về một cái gì khác thì chưa có.

Cũng như vậy, tôi nhớ những lần Khải đến chơi, ông kể những chuyện ông quan sát được, thấy rất hay. Nhưng đấy vẫn chỉ là người nói chuyện hấp dẫn, không thể gọi là sâu sắc, theo nghĩa đúng của chữ ấy.


Nghệ sĩ và thời đại

Những người thông minh quanh chúng ta nhiều chứ.

Nhưng thông minh lắm thì cũng đến như Chế Lan Viên, mang câu hỏi ta là ai, đánh tráo thành câu hỏi ta vì ai, để động viên mọi người chiến đấu.

Qua Nguyễn Khải, Chế Lan Viên -- lại vẫn phải nghĩ về thời đại. Cái thời nó làm cho mọi người làm văn nghệ chỉ có một cách nghĩ như vậy.

Rồi các lãnh tụ văn nghệ cũng không thể nghĩ khác. Ông Tố Hữu thì thấm thía gì so với ông Nguyễn Chí Thanh mà dám nghĩ khác.

Nhưng tôi chỉ lạ là sự chuyển biến những năm đầu cách mạng. Sao cách nghĩ trước 1945 bị từ bỏ nhanh đến thế mà cách nghĩ mới, chỉ một vài năm đã ngự trị khắp nơi rồi. Ông Xuân Diệu, ông Nguyễn Tuân, đến ông Nguyễn Xuân Sanh đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà cũng thế nốt.

Tôi đã đọc bài Nguyễn Đăng Mạnh viết về Nguyễn Đình Thi trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà văn. Tôi thấy anh Mạnh hơi bất công ở chỗ anh không thấy sức ép của thời đại lên mỗi người. Người ở càng cao, thì ép càng mạnh.

Trong các ông giáo sư của ta bây giờ, tôi rất phục ông Trần Đình Hượu. Một lần tôi được nghe ông ấy nói về Đông Kinh Nghĩa Thục thấy ông ta kết luận:

- Về tinh thần yêu nước, thì chúng ta bây giờ chưa chắc đã hơn các cụ. Các cụ hồi ấy ghê lắm, nhiệt huyết lắm.

- Chỗ giống nhau giữa Đông Kinh Nghĩa Thục với ta là các cụ cũng nói đổi mới, cũng muốn làm mới mình, nhưng mới là gì, thì không biết.

Thế còn Từ Chi? Đọc ông ấy, thấy có duyên lạ. Nhưng một con người uyên bác và hóm hỉnh như thế sống như thế nào. Tôi nghe người ta kể, ông nhận xét về Đào Hùng "cái chết của hắn là ở ngay cơ quan làm cái chuyên môn về sử". "Tức là muốn tồn tại được, anh phải ở cái cơ quan nó làm nghề khác anh". Nghĩ kỹ thì thấy cả xã hội thù ghét người làm chuyên môn, thật buồn cười quá.

Lắm lúc nghĩ ngợi một hồi tôi chỉ còn chốt lại cái ý: cái thời đại này nó mới ghê chứ, nó nghiền nát bao nhiêu người. Đến cả loại như Nguyễn Tuân, nó cũng không tha cơ mà. Mà Nguyễn Khải muốn vượt lên được, muốn khẳng định được mình, thì cũng phải biến dạng đi, thay đổi đi, có khi không còn là mình nữa.

Chắc anh còn nhớ, hồi 1974, Nguyễn Khải viết một loạt bài trên báo Nhân Dân, rồi bị phê bình. Gặp anh ấy ở nhà Thiết Vũ ra, tôi hỏi thăm vài câu tôi nhớ Nguyễn Khải có nói mấy câu, mà phải nói ta không bao giờ tôi quên nổi:

- Ông xem loại người như tôi, ơn vua lộc nước đầy mình, tôi viết thế tức là tôi nịnh chứ. Vậy mà nịnh không nổi, hoá ra nịnh cũng khó lắm.

Tức là thế nào? Tức là ông Nguyễn Khải ông ấy rất hiểu cái vị thế của ông ấy, ông ấy làm mọi việc trong sự kiểm soát của lý trí.

Cái năm ấy, vụ Trần Việt Phương nổ ra trước, vụ Nguyễn Khải tiếp theo sau, tôi nhớ ông Tố Hữu ông ấy nói ý như thế này, Trần Việt Phương là một thằng điên, còn Nguyễn Khải ông ấy gọi là một thằng xỏ lá (Mà ông Tố Hữu nói, tức là Đảng đã nói)

Nguyễn Khải biết cái khó của Nguyễn Khải lắm!

Tôi nhớ năm ấy ông ấy viết xong Cách mạng, muốn nhờ Trần Phương đạo diễn. Tôi thì cũng chả phải xin việc, nhưng cũng thành thật hỏi sao ông không gọi tôi. Anh biết ông ấy trả lời sao không:

- Thế này ông Nghi ạ, tôi cũng sắc mà ông cũng sắc. Hai thằng sắc sảo cả gặp nhau thì sập tiệm. Tôi phải gọi Trần Phương cho nó nhoè đi, tù đi, may ra mới diễn được.

Qua chuyện này tôi nghĩ với Nguyễn Khải, trước hết viết phải đúng, kịch phải diễn đã.


Thời đại làm cho con người thay đổi nhiều quá.

Vào khoảng những năm 60, có lần tôi đi xe đạp, đâm vào một người khác, tức rõ ràng tôi có lỗi. Nhưng vì tôi ngã, tay đau quá, nên cứ đứng vẩy vẩy cái tay thế này, sau mới đến bên ông ta xem sao. Chưa kịp nói, đã nghe ông ta hỏi luôn: Anh đau lắm à.

Sau đó hai người cùng buộc lại gói hàng của ông ấy.

Lúc ấy, như thế là chuyện bình thường.

Đến những năm 70, đâm vào nhau, chỉ văng ra một câu : mắt mù à?

Bây giờ thì chửi nhau ngay được.

Thế tức là bản chất con người không đổi, họ chỉ bị cuộc sống làm cho hư hỏng.

Về sự cam chịu. Phải thấy nó có giới hạn. Như tôi, lúc đầu tôi chỉ tự dặn thành tâm làm việc và thấy không được hưởng lương xứng đáng thì buồn… Sau tôi bị quên nhiều quá, thấy mình so với mọi người thiệt quá, chịu không nổi, đến mức tôi phải viết thư lên ông Vũ Khắc Liên. Và thế là ít lâu sau, tôi được lên lương, đúng như đáng lẽ phải vậy.



CÁC THẾ HỆ -- CÁC TÍNH CÁCH

Lại nói chuyện các ông tiền chiến. Lúc tôi vào nghề, tôi hơi ngợp trước cánh các ông ấy. Rồi tôi chứng kiến sự vớ vẩn của Nguyễn Xuân Sanh, sự đóng vai cán bộ tài ba của Tô Hoài, sự thảm hại của Thanh Tịnh, sự thảm hại hơn nữa của Đoàn Phú Tứ, thì tôi mới bình tĩnh trở lại được.

Những ông văn nghệ trẻ, thì lại có võ riêng; và cái tài riêng.

Đặng Đình Hưng phụ trách văn công, nhân danh một nhạc sĩ. Nhưng Xuân Diệu ghét Đặng Đình Hưng lắm. Nhạc sĩ gì mà chẳng có một giai điệu nào người ta nhớ được. Ấy thế, nhưng cái võ của Đặng Đình Hưng thì thật tài, đánh nhau với Học Phi mãi. Một người như Thái Thị Liên lúc ấy ở Tiệp về, phục Đặng Đình Hưng sát đất.

Còn Thuý Thuý, lúc ấy là diễn viên văn công. Mặc dù biết Lê Đạt đã có vợ rồi (một cố nông), song vẫn mê Lê Đạt như điếu đổ. Dĩ nhiên, loại người được ông Trường Chinh lấy về văn phòng của mình như Lê Đạt là rất thông minh. Lê Đạt có lúc đã nhận Trường Chinh là một nhà chính trị vĩ đại. Thuý Thuý bảo, chỉ có 2 Lê mà em thích đọc, là Lênin và Lê Đạt. Còn Lê Đạt cũng tự nhận là thơ tao hay như thơ Đường.

Lê Đạt là loại người nói về ai xong thì vỗ đít đứng dậy không cho người ta nói lại nữa.

Đoàn Phú Tứ là người blaser (có nghĩa là chai sạn trơ tráo) theo đúng nghĩa của chữ ấy trong tiếng Pháp. Ông Tô Hoài bảo bạc ác, là đúng đấy. Tôi nghe kể, lúc ở phố X, phòng ông ấy cạnh phòng một tay có con chó. Ông Tứ hay đi chơi khuya mà con chó cứ thấy người khuya khoắt còn khua giầy trên cầu thang là nó sủa ầm lên. Tay hàng xóm cự, ông Tứ cãi lại:

- Toa có vợ, toa ở nhà, ngủ với vợ. Moa không có vợ, moa phải đi ngủ với vợ người ta, nên về muộn, không thể vì chiều con chó của toa mà cấm moa đi chơi khuya được.

Trong câu nói ấy, hàm ý xỏ ngầm nên tay kia đành im.

Ông Tứ là loại đi ngủ lang với vợ người ta, bị bắt quả tang, còn bình tĩnh ngồi dậy cài cúc quần, và bắt tay nói chuyện cơ mà.

Một lần, Đoàn Phú Tứ đứng đái, nói với người khác:

- Mình nhìn cái cu của mình, thấy nó còn thông minh hơn mặt khối thằng khác.

Cái lần ông ấy dự đám cưới Trần Du Châu, rồi bị một cái tát, không phải là căm ghét kẻ lãng phí đâu, mà là nói ngang nói bậy gì đấy, nên mới bị người ta trị.

Tuy nhiên, lại cũng phải nhận ông Tứ là người làm cái gì cũng nổi, sáng chói, rực rỡ hơn người.

Tôi nhớ có lần chỉ quanh chuyện chơi sách thôi, ông ấy nói với tôi hai tiếng đồng hồ liền, thú chơi sách có từ bao giờ, chơi sách da thế nào, chơi sách in thế nào, chơi sách cũ ở Tàu, chơi sách cũ ở Tây.

Ông Tứ không thích Phan Khôi, nhưng lại đối xử rất khéo, đến mức Phan Khôi không nhận ra.

Vả chăng, Đoàn Phú Tứ khiến cho nhiều người biết ông không ra sao, nhưng không ghét nổi. Ví như, quanh năm, ông ấy rạc dài không làm gì - trong khi đó, Phan Khôi nghiên cứu rất nghiêm túc. Nhưng đến lúc báo cáo công việc, thì ông ta lại trút ra được một bài viết mà ai cũng thấy là có khía cạnh rất sắc sảo.

Nền văn hoá cũ, dạy người ta rằng người trí thức phải có sự ngượng, chữ Pháp nó gọi là pudeur.

Trong công việc, chữ này có nghĩa là sự liêm khiết. Tức là anh chỉ nói những điều anh suy nghĩ kỹ thôi. Không xoáy của người khác đã đành, cũng không nói những điều ngẫu nhiên, sàm sỡ.

Hồi chỉnh huấn ở Việt Bắc, ông bố tôi dẫn lại một câu của đạo Thiên Chúa.

- Giữ lấy sự khiêm tốn trước Chúa để giấu đi sự kiêu ngạo trước con người.

Theo ông giáo lý của đạo rút lại chỉ dạy người ta như vậy.

Câu đó, không phải ai cũng hiểu ngay được đâu.

Các cụ trước có những ý tưởng thú vị lắm. Ví dụ, cái câu tiếng Pháp mà người ta vẫn dịch: Tôi tư duy vậy tôi tồn tại. Ông Hoài Thanh ông ấy lại cho là dịch thế này mới đúng: Ta tư cảm, vậy thì có ta.


Anh nên nhớ, tôi là dân đạo. Có nhiều từ trong tiếng Việt, đến người đi đạo mới dùng được trọn vẹn. Như là chữ thương khó chẳng hạn, phải có nó mới dịch được đúng chữ passion của Pháp (passion không phải chỉ có nghĩa là dục vọng)

Chữ song le, là do mấy ông cha cố đặt ra?

Chinh phụ ngâm có câu Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng? chữ có hay quá còn gì.

Nhưng thần tình nhất là cái cách người ta dùng chữ mà. Bao giờ cũng chính xác

(Nhàn: Có lẽ là người Pháp, văn hoá Pháp --và phương Tây-- đã dọi vào tiếng Nôm một thứ ánh sáng khác, mà trước đây, bằng nguồn ánh sáng chữ Hán, ta không thấy.)

Tôi có đọc cái ý cô Phạm Thị Hoài chê tiếng Việt, tôi cho như thế không được. Anh cứ đi vào nghiên cứu tiếng Việt mà xem, anh sẽ rất mê.

Cái này, thì tôi nghiệm ở mình ra. Nghiệm qua những dịp làm việc với người nước ngoài.

Ví dụ, có một thằng Đức, cho nó đi xem trích đoạn chèo, nó không thích lắm đâu. Xem tuồng thích hay không, cũng tùy từng người (có nhiều ngưòi chê tuồng nói nhiều quá, tức là ồn quá. Cùng một lúc bắt người ta phải tiếp nhận nhiều thứ quá. Đến thằng Đức, tôi vừa nói, nó cũng không thích.)

Nhưng trước lúc về, dẫn nó đi xem Kim Nhan, thì nó bàng hoàng. Và về Đức, nó viết rằng, nó cảm thấy có lỗi, khi không biết rằng có một nền nghệ thuật như vậy tồn tại.

Còn đây là lời một người Pháp nói về chèo: đó là một nền sân khấu có nhiều điều để nói (còn nói gì thì tôi không biết)

Như thế, tức là khen chứ gì?

Về một kiểu tư duy. Có những người, như ông Đình Quang đầu óc của dân biên soạn, nhưng óc cán bộ nặng lắm. Điều ông ấy không biết, tức là không có ở trên đời. Điều gì ông ấy không làm, tức là người khác không được làm. Còn điều gì ông ấy không nói, mà người khác nói, tức là sai. Ấy vậy, mà ông ta cứ đi lập thuyết cứ đi giảng giải, và không biết ngượng trong việc nhắc lại những ý của người khác.

Có lần, tôi nghe anh em xuýt xoa khen anh Đình Quang nói hay lắm, anh ấy bảo mỗi người phải có cái kinh phúc âm của mình, tức là điều mình tin, và mình luôn luôn trở lại. Ờ, hay thật, nhưng tôi biết rằng đấy không phải là điều ông ấy nghĩ ra mà là một câu trong sách.

Cũng lạ lắm, là một người như Lưu Quang Vũ, rồi cũng lấy trong sách ra để làm ý của mình. Chẳng hạn, trong vở Thằng cuội, Vũ để cho một cậu tán người yêu, nhưng chỉ đứng đấy thôi. Chính ra là cuội tán hộ.

Đây cũng là chi tiết nước ngoài họ viết rồi.

Tôi có bảo Vũ là bỏ đi nhưng Vũ không chịu.

Tô Ngọc Vân ư, đấy là một nhà văn hoá, viết rất hay, mà nói cũng giỏi (nên nhớ ông từng đi dạy học)

Tôi đang ngồi với ông Tô Ngọc Vân thì nghe Dương Bích Liên lên trả bài. Tô Ngọc Vân ngắm nghĩa một lúc rồi gật đầu. Khá lắm. Phác thảo chì mà trông đã ra màu rồi. Về lên màu đi.

Dương Bích Liên mang về lên màu, rồi lại đưa ông xem. Lần này ông Vân lắc đầu:

- Bây giờ thì chả còn ra màu gì với màu gì. Đơn điệu.

Tôi phải thắc mắc, tại sao hôm qua phác thảo chì thì có màu, mà hôm nay, có màu rồi, thì lại không thấy màu gì. Ông lại ngồi giảng cho tôi một lúc.

Nhân đọc bài Một hồ sơ nhỏ về Đốt của anh, tôi lại nhớ cái lần tôi tiếp xúc với Tội ác và trừng phạt. Đọc trong lúc nào anh có biết không? Lúc tôi vừa ốm dậy. Một đợt ốm kéo dài, cứ hai ngày lại một cơn sốt rét rung cả giường. Ông bố tôi ở với cơ quan cạnh đấy, thấy tôi đọc Đốt, tỏ ý băn khoăn ra mặt.

- Thứ này đọc hại đến tinh thần người ta lắm.

Và ông hỏi thêm.

- Đọc đến đâu rồi.

- Đọc gần hết.

Ông nghĩ một lúc:

- Thế thì phải có thuốc giải độc.

Và ông gửi sang một quyển sách khác. Quyển gì anh có biết không? Không, không một cuốn tiểu thuyết Xô viết nào làm được việc đó, mà phải là Anna Karénina.

Lại nói chuyện Đốt. Có lần, trong kháng chiến, tôi được nghe đám cán bộ con nhà tương đối trong xã hội cũ, kể về những độc ác của họ, nghe xong rùng rợn cả người: may mà mình không đến nỗi như thế.

Nghĩ xong, lại thấy phục ngay ông Đốt. Là vì trong một tiểu thuyết nào đó, ông đã kể cái trường hợp một người bị xe kẹp, mọi người xúm đến xem và trở về ai cũng hoan hỉ, may mình không việc gì.



Về Phan Khôi

Ông Phan Khôi hồi kháng chiến được trọng vọng lắm. Nhà học giả mà. Đọc nhiều. Phan Khôi không bao giờ thèm cóp ở người khác, lý do vì ông ta cảm thấy đã viết là phải viết cho độc đáo.

Nhưng mà nghe kể thì thì Phan Khôi cũng ăn chơi lắm. Ăn chơi độc đáo như làm nghiên cứu độc đáo ấy

(Phan Khôi cũng chê Ngô Tất Tố là không sạch nghĩa lý thánh hiền, học chưa đến nơi đến chốn).

Phan Khôi dạy tôi từng chữ Hán một. Nhân đọc quyển sách có cái tên Như Tây hành trình nhật ký, tôi hỏi ông như là gì, ông nói ngay như là đi. Bản thân ông học chữ Tây theo kiểu đó. Nghĩa là cứ lấy tự vị ra mà học. Thành thử kiến thức của ông -- cộng giữa sách Tây và sách Tàu, giữa tự học và quan sát thể nghiệm -- thành một tổng thể lạ lắm.

Hai bác cháu đang đi ở đường, thấy một người phụ nữ rửa chân.

- Nghi trông kìa. Sau có lấy vợ, chớ nên lấy loại người có bắp chân như thế kia, khó có con.

- Sao bác biết?

- Sách Tàu họ viết thế.

Ông tin cả vào những sự thật lẩn mẩn, ví như đá có thể nở, đá chôn xuống đất, đỡ cho các cột nhà, sau lấy lên, thấy nó nở ra.

Lần này thì tôi không chịu. Tôi bảo, trừ việc đá ngâm nước không kể, chứ đá làm sao nở được. Căn bản là bác có đo đâu, đo khi chôn nó xuống, đo khi đào lên, mà phải đo thật chính xác cơ. Người ta hay bị cảm giác đánh lừa lắm.

Đến lượt Phan Khôi ngạc nhiên:

- Cháu học cái này ở đâu?

- Ngay trong những cuốn sách ở lớp sơ đẳng tiểu học đã có những mẩu chuyện dạy người ta phải thận trọng quan sát thực tế.

Và tôi dẫn ra vài mẩu tôi còn nhớ.

Hình như Phan Khôi ngán luôn, ông không bao giờ được học như thế.

Phan Khôi thường tự hào, ông làm báo đã thành tinh, bảo viết mấy cột cũng được. Ví dụ bây giờ báo thiếu bài, cần một bài ba cột. Thế là ông viết không thừa một chữ. Đến khi họ lại đến nhăn nhó, hoá ra họ chỉ cần có 2 cột thôi, ông không nói gì, lại ngồi cắt tỉa, còn đúng có hai.

Nhưng khi phải làm chủ báo, thì ông lại đủ mánh khoé, để báo có bài và câu thêm được người đọc.

Ví như năm ấy, có lần trên mục nhắn tin, thấy năm lần bảy lượt mời ông Nguyễn Xuân Huy đến toà soạn chữa một câu thơ. Rồi đến cái quảng cáo, sắp tới bạn đọc sẽ được đọc bài thơ chẳng kém gì Trường can hành của thánh thơ Lý Bạch. Đến số sau, bài thơ mới được in ra.

- Bài thơ hay đến thế hay sao?

- Làm gì có. Nhưng phải làm thế cho bạn đọc người ta chú ý. Cũng chẳng vì thế mà mất uy tín, vì các đồng nghiệp già dặn trong nghề đều biết thừa đầy là cái mẹo làm báo của bác, chứ làm gì bác không biết bài thơ xoàng đến mức nào.

- Phục nhất thằng Pháp, cái lần mình dịch cho nó quyển Kinh Thánh, và in ra, nó liền mở một cuộc thi-- thi xem trong bản in Kinh Thánh này còn bao nhiêu lỗi mo-rát.

Làm thế, vừa để người ta đọc Kinh Thánh, vừa bán được sách, mà tiền bỏ ra sẽ chẳng thấm gì với tiền quảng cáo cả.

Tôi đồng ý với anh là Phan Khôi khác, Lỗ Tấn khác. Phan Khôi thông minh sắc sảo, nhưng cái phần yêu nước thương dân, lo đời lo người, thì ông không có dịp biểu lộ ra như Lỗ Tấn.

Tôi nhớ một lần tản cư đến làng X. một người nông dân tỏ ý ái ngại mấy cụ già Phan Khôi, Ngô Tất Tố… quá vất vả.

- Thời buổi loạn lạc nên các cụ mới phải lặn lội mưa gió thế này.

Phan Khôi chữa lại ngay:

- Sao lại bảo là thời loạn? Giờ là thời thịnh trị chứ. Có thịnh trị thì toàn dân mới theo cụ Hồ đánh Pháp.

Thực ra, đây là trích đoạn trong một vở kịch, ông ấy đọc được và nhập vai lại. Nghe kể, ai cũng khen là sâu sắc.

Ông Nguyễn HuyTưởng có bài thuật chuyện đi mặt trận, Phan Khôi nổi lên như một tấm gương, cũng là đúng đấy.

Nhiều lần khác Phan Khôi cũng phát biểu cảm động lắm. Nhưng thú vị là ở chỗ, có lần nghe những phát biểu loại này, khi về phòng, nghe tôi khen, ông chỉ tự nhận:

- Đã nhận com măng, cũng phải làm cho đến nơi đến chốn.

Tôi mang chuyện này kể lại cho bố tôi, thì ông (Thế Lữ) bình luận:

- Cái tật của người trí thức vẫn thế - làm xong - làm một việc tốt- xong lại cứ hơi xấu hổ, và phải bảo rằng nó không ra sao.

Tôi là người học theo trường dòng, từ nhỏ, tôi sống với đạo Thiên Chúa, nên bảo tôi trình bày về đạo này rạch ròi, tôi không trình bày nổi, nhưng ai nói sai tôi biết ngay. Ông Phan Khôi đối với đạo cũng như thế -- chữ đạo theo nghĩa rộng nghĩa là giáo lý thánh hiền.

Ông kể, cái hồi phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim, ông tức lắm, vì nhiều chỗ hiểu bậy quá, không đúng.

- Thế sao cháu nhớ là bác còn ưu ái lắm cơ mà.

- Thì dẫu sao đây cũng là lần đầu tiên, có người nói kỹ về đạo Nho như vậy.

Tại hội nghị văn hoá toàn quốc 1948, Phan Khôi lên đọc báo cáo về dạy văn pháp (ngữ pháp). Quay trở về chỗ ngồi, nghe Nguyễn Lân bảo "Thì ở trường trung học, chúng tôi vẫn dạy học trò vậy"

Phan Khôi im, không nói gì cả.

Có lần, tôi (VTN) đọc bài Yến Lan viết năm 1956, về vụ giải thưởng 1954-55, trong đó nói rằng ông Phan Khôi cũng lèo lá, ông là thành viên Ban giám khảo giải mà lại không đọc quyển nọ quyển kia, thế thì còn ra sao. Hình như trong việc này, Phan Khôi cũng hơi lươn lẹo chăng?

Nguyễn Đình Nghi: Không, Phan Khôi không thế đâu. Nói chung là hồi đấu tranh chống Nhân văn, người ta ăn không nói có nhiều lắm. Bản thân Bửu Tiến có lần viết Phan Khôi đi theo cách mạng cơm trắng có, cơm đen có. Tôi ở với Phan Khôi làm gì có chuyện ấy!

Hoặc như Đào Vũ kể rằng Phan Khôi trong kháng chiến, ở nhà đồng bào đái ra cả nhà họ. Thực ra câu chuyện như thế này.

Lần ấy Phan Khôi ốm, ốm đến mức đêm dạy buồn đái quá, mà không xuống thang được, phải đái ngay vào cái cột nhà sàn, để nó chảy xuống tầng dưới.

Nhưng lão chủ nhà người Thổ mà quá khôn ngoan, thấy Phan Khôi ở nhà mình không mang lại lợi gì, lúc ấy đã nhiều phen khó chịu, nhân chuyện ấy của Phan Khôi, mới làm ầm lên, để mọi người biết, mặc dù Phan Khôi đã xin lỗi cẩn thận.

Đọc văn, anh không thể tưởng tượng được rằng Phan Khôi là một người đa tình. Hồi ông bị giam trong một công đường (chứ không phải trong khám), ông còn tán được cô vợ lẽ tay tỉnh trưởng cơ mà. Lạ nhất là sau đó, ông bị một tốp thanh niên đuổi đánh, phải chạy trốn. Thì ra bọn họ tán mãi không được cái cô vợ lẽ ấy (!)

… Như tôi đã nói ở trên, lúc trẻ, ông chơi kinh khủng. Tức là ông vẫn thuộc dòng nhà nho tài tử. Bảo ông là học giả không hẳn đúng. Trong ông có một lãng tử.

Còn nhớ, lúc tôi được gọi sang Trung quốc học, Phan Khôi tận tình khuyến khích tôi đi bằng được.

Lúc tôi viết cho ông một lá thư bằng chữ Hán, ông cảm động lắm, viết ngay thư trả lời mà đầu tiên là Thân ái đích Nguyễn Đình Nghi điệt tử viết bằng chữ Hán.

Rồi ở đoạn dưới - viết bằng quốc ngữ - ông bảo rằng nhận được thư tôi, ông đã viết ngay dòng chữ Hán đó, nhưng nghĩ mãi không biết viết tiếp bằng chữ Hán ra sao, mới phải dùng chữ quốc ngữ.


Mấy nhân vật khác

Ông Vũ Ngọc Phan thì chán lắm. Tôi còn nhớ như in cái đêm Nguyễn Tuân từ Khu 4 ra, kể chuyện lên lớp cho lớp văn hoá khu 4, Vũ Ngọc Phan nói nhạt như thế nào, và để ví dụ Nguyễn Tuân dẫn ra những câu chuyển đoạn của Vũ Ngọc Phan: "Bởi vì thế cho nên mới thấy lý do rằng thì là"

Và người ta tổng kết, Vũ Ngọc Phan có tài biến những cái hay thành cái nhạt.

Còn tôi, tôi cũng có kinh nghiệm riêng về cụ Phan An na Kha lệ ninh thì không nói làm gì, ngay đến Đảo giấu vàng (Châu đảo) mà tôi đọc bản dịch cũng không thể chịu được, phải tìm nguyên bản.

Ông Nguyên Hồng với tôi còn có họ đấy chứ, tôi phải gọi bằng chú. Hồi nhỏ, tôi đã yêu ông chú ấy, hồi kháng chiến, đi với ông, tôi còn thỉnh thoảng cấu vào vai ông, chỉ sợ không thật, sao mà lại có người thông minh thế này.

Sau mới phát hiện ra là ông ấy ít học và có nhiều chuyện nhớ lẫn, song lại nói rất cảm động, thành ra cứ như là người nói dối.

-- Nhân nói đến Bửu Tiến, và cái bài phát biểu của Bửu Tiến tại một đại hội nhà văn (không được đọc, nhưng sau 1-2 tờ báo nào đó, khui ra, đăng lại), Nguyễn Đình Nghi kể một lô một lốc các chuyện liên quan đến ông này.

Đúng là ông ta có họ với hoàng tộc đấy, nhưng chỉ là xa xôi thôi.

Chính ông kể cho ai đó, rằng ông làm thợ may ở Huế, được vời vào cung, may áo cho Nam Phương hoàng hậu, ông ấy còn mang theo một quyển sách tiếng Pháp, rồi bà hoàng hậu mới hỏi rằng ông cũng đọc sách này cơ à, hai bên đàm thoại bằng tiếng Pháp làu làu cơ mà.

Đấy là một người ác khẩu, chỉ một ví dụ này đủ biết.

Có một câu làm vở kịch gì đấy, mời ông xem, ra về hai bên đi nói chuyện.

"Vở này tốn kém nhỉ"

"Tiền nong không nói làm gì, nhưng anh thấy chất lượng ra sao"

"Thì mình đã nói: vừa tốn vừa kém"

Có lần, ông đọc vở, rồi mọi người góp ý kiến, trong đó có cả Thế Lữ. Sau ông kể lại với tôi.

"Mọi người nói khá hay, nhưng tôi nhớ nhất lời ông bố cậu"

"Ông ấy nói như thế nào"

"Vở kịch được viết chặt chẽ quá, đến mức không cựa được".

Được cái khi cần bướng với cả cấp trên. Chính Bửu Tiến là người dám nói với Tố Hữu (có lẽ cũng là người Huế, nên họ biết vở nhau)

- Ông nên để ý tới cấp dưới một chút, chứ dạo này sách giáo khoa toàn thấy giảng thơ ông đấy.

Tôi không có ấn tượng gì đó đặc biệt về Kim Lân, chỉ nhớ nhất là ông ta cũng tinh nhạy lắm. Có lần ông ta chấp bút làm một vở gì về ruộng đất, lấy tên là Nông dân vùng lên. Tôi đang phụ trách đánh máy ở cơ quan, ông đến gần và bảo:

- Có to quá không?

Tôi tưởng là ông ấy có nhận xét gì về kỹ thuật, song hoá ra ông ấy băn khoăn về nội dung. Thế là người cũng nhạy đấy chứ.

Nhưng ông này có cái lạ, là có gì không biết, là lảng.

Và tôi cảm thấy ở ông ta cũng có cả một nụ cười chế giễu thường trực.

Loại người như Tô Hoài, nói về thi đua rất hay. Đại khái ông ấy bảo nói yêu nước thì ai cũng như ai. Song chỉ căn cứ vào thi đua mới biết ai yêu nước hơn ai. Tức là một cách để nói rằng thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua.

Tôi cũng sợ ông Tô Hoài về cái tính hay chế giễu. Tôi phụ trách báo tường, đến bài ông ấy viết là ngại lắm, cứ mủm mỉm cười mà hoá ra từ chối.

Có người hỏi Tô Hoài mực tím làm bằng gì, ông ta mới chỉ cho tôi, hỏi cậu Nghi đây này, và tôi thì tôi biết bản chất của mực tím thật - nó là một thứ khoáng chất. Nhưng trong cái nhìn của Tô Hoài, cứ thấy một thoáng giễu cợt, có mỗi chuyện vớ vẩn ấy mà cũng để ý.


CÁI KHỔ CỦA NGƯỜI LÀM VĂN NGHỆ.

Hồi kháng chiến lúc đầu ông Tố Hữu lúc đầu ở với anh em, gần lắm. Những hôm liên hoan, ông hay ngâm Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm của Xuân Diệu. Và ngày thường cũng ngâm nữa. Nguyễn Đình Thi than, quái, cái giọng Huế của thằng ấy, nghe sao cảm động thế. Một lần mặc soóc, lại lơ - vê, anh em còn trêu, ái chà, hôm nay anh lại có mốt mới.

Quan chức đến với ông bắt đầu từ khi ông được thay Trần Văn Giàu, làm Tổng giám đốc đài phát thanh. Rồi vào Trung ương (Nguyễn Đình Thi kể với tôi trong lần gặp ở Moskva: mình viết cho Tố Hữu cái báo cáo, để ông ấy vào Trung ương –VTN chú). Cứ thế mà Tố Hữu to mãi lên. Trong chỉnh huấn, ông Hoài Thanh bảo: Nói ra thì cũng được thôi, nhưng anh em chỉ nghĩ rồi Đảng sẽ nghĩ về mình ra sao, anh Tố Hữu sẽ nghĩ về mình ra sao.

Ông Lành cũng là người vừa khít với cái yêu cầu mà lãnh đạo mà cuộc kháng chiến chống Pháp đòi hỏi -- một người rất thông minh trong tổng kết, một người giỏi che chắn, một người dám phũ phàng.

Đến đầu hoà bình cũng vậy.

Cái lần ấy vở Voòng Dìn bị đánh, Hoài Giao tức lắm. Nhân có buổi Tố Hữu nói chuyện ở báo Nhân Dân, Hoài Giao cũng ngồi đấy. Hoài Giao nói lửng lơ, đề nghị anh Tố Hữu nói hay hay vào. Ông Tố Hữu trừng mắt ngay:

- Tôi không biết nói hay, tôi chỉ biết nói đúng.

Chính là Tố Hữu chủ trương phải đưa công nông vào văn nghệ. Không cần chuyên nghiệp. Ai có tinh thần phục vụ, người đó sẽ có tài. Hồi đầu hoà bình, toàn đề cao mấy diễn viên như Thuý Thuý vợ Lê Đạt là vì vậy.

Có thể mọi chuyện do ông Nguyễn Đình Thi nghĩ ra. Nhưng Tố Hữu thì làm đến cùng.

Hồi đầu chống Mỹ, có vở Đôi bạn của Thanh Hương, Mạnh Linh đạo diễn. Ý của người làm vở mới nhấn mạnh một chút gọi là số phận cá nhân. Tố Hữu nói ngay: không có số phận cá nhân gì cả. Bây giờ vấn đề đặt ra là số phận dân tộc ra làm sao. Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí - đến trong tình yêu cũng phải vậy cơ mà.

Chắc anh thừ hiểu chính những lần mang vở lên cấp trên duyệt lại để trong lòng mình những ấn tượng rất đậm. Ấn tượng về chính con người các ông ấy.

Hồi tôi làm Hình và bóng, Tố Hữu ghét lắm. Ông Thế Lữ gọi tôi lại, giới thiệu. Tố Hữu nhận ra ngay ( vì ông ấy với mình cùng cơ quan hội văn nghệ như trên đã nói). Sao Nghi trẻ thế. Thưa anh, tôi không còn trẻ nữa, bốn mươi tuổi rồi. Thế vợ con ra sao. Cảm ơn anh bình thường. Tình cảm đâu vào đấy. Thế nhưng phê phán Hình và bóng thì rất căng. Tôi cãi lại. Ông ấy không chịu. Báo cáo anh, tôi xin về. Ừ, Nghi về nhé. Cho hỏi thăm vợ con nhớ, lại tình cảm như thường. Sau Hình và bóng, tôi làm Âm mưu và tình yêu. Tôi chỉ muốn lưu ý trong đó cái nồng nàn của con người. Cái nồng nàn mà tôi thấy là ở ta, do hoàn cảnh chiến tranh, không có. Vở diễn cũng bị một ông phó bí thư tỉnh uỷ phản đối và phải nhờ ông Lê Văn Lương can thiệp mới ra được. Ông Tố Hữu sẽ khen cho mà xem, sau khi chê, phải khen, tôi nghĩ. Và quả nhiên, đúng vậy. Tôi đang hoá trang cho một diễn viên, thì một tay cán bộ Sở Văn hoá gọi. Làm cái gì mà ầm lên. Bỏ ngay, bỏ ngay, anh Tố Hữu gọi. Nhưng tôi còn cứ lần chần. Ông ấy đứng ở cạnh cầu thang để chờ. Ôm hôn thắm thiết lắm.

Tôi có một kinh nghiệm: đừng có sai về tổ chức là được. Các ông ấy sợ tổ chức. Còn như tư tưởng chả có gì là chắc chắn cả. Cãi lại rất dễ. Mà không cãi được, cứ im, cũng chẳng sao đâu.


Cố nhiên, cái khổ lớn nhất, là phải làm việc dưới sự chỉ đạo những người không biết gì về nghệ thuật ( anh em hay đùa là phải hầu hạ…).

Chẳng hạn, như một lần, ông Hà Huy Giáp tự nhiên vui chân đến thăm đoàn (văn công nhân dân Trung ương hay Nhà hát kịch?) và cũng tự nhiên nói chuyện với anh em.

- Các đồng chí làm nghệ thuật bây giờ phải đa năng, đấy ngay như Molière xưa cũng rất đa năng, vừa làm đoàn trưởng, vừa viết vở, vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên.

Chắc là cụ mới nghe ai nói ở đâu đó, thú quá, nên nói ngay. Mà các ông ấy đã nói thì bọn trợ lý dễ biến thành chỉ thị lắm.

Tôi phải thay mặt anh em mà nói lại một cách rất nhã nhặn. Rằng đó là chuyện ngày xưa, chứ bây giờ, người ta được chuyên môn hoá cao độ. Rằng tiếng là làm đủ thứ thế, nhưng cái còn lại ở Molière chỉ là viết vở, chứ còn các mặt kia, có thấy nói gì đâu.

Đại khái nói một lúc, nói thật khéo nhưng cốt để ông ấy quên đi.

Còn đây, là một kỷ niệm về Hình và bóng với ông Bửu Tiến.

Thông qua ở trên bộ, ý kiến rất khác nhau, tới mức ông Mai Vy phải bảo: " Thôi, đến nước này, bộ chịu đấy, phải đi mời cấp trên thôi"

Mời ai bây giờ, có thể là ông X.(?), ông Trần Quang Huy, mà có thể là ông Hoàng Tùng. Anh em bàn nhau, các ông kia quyn-tuya si noa, quyn -tuya xô viết, khó chơi lắm, mời Hoàng Tùng quyn- tuya frăng xe thì hơn. Hoàng Tùng nhận lời.

Tôi được phân công nói lời dẫn giải.

- Thưa các đồng chí, các đồng chí sắp sửa có ý kiến quyết định không chỉ đối với một vở kịch, mà là với lao động nghệ thuật và niềm vui nỗi buồn của hơn 70 con người, những người lao động tận tình, tâm huyết những người luôn luôn muốn phục vụ nhân dân, mang lại thưc ăn tinh thần cho nhân dân, những người ghi nhớ đến tận đáy lòng lời chỉ giáo của Gorki” Phải nắm vững ngôn từ như một sinh vật trong lòng bàn tay của mình, và phải làm sao để khi thả nó ra, sinh vật đó vẫn phập phồng sống động.”

Bửu Tiến bảo tôi: Nói thông minh và lễ phép lắm.

Sau đó, đến những màn quan trọng tôi lại cho dừng lại ra thưa trước:

- Sau đây đến đoạn quan trọng nhất của vở. Ở đoạn này, chúng tôi đã tìm được 3 cách xử lý, sau đây, chỉ đưa ra một để các đồng chí xem và có ý kiến. Cũng phải nói ngay là trong 3 cách xử lý này thì cách sau đây, theo chúng tôi là vừa bảo đảm chính trị, vừa hay, nghĩa là có nghệ thuật, còn các cách kia, thì nghệ thuật hoàn toàn bị vứt bỏ.

Ông Hoàng Tùng xem và không nói gì, tức không thấy sai. Đôi lúc, ông hỏi ông Hoàng Minh Giám, anh có thấy gì không, Hoàng Minh Giám trả lời rằng không. Thế là được.

Chỉ đến khi Tố Hữu chỉ thị xuống là đánh thì mới đánh.

Mà Tố Hữu không xem, chỉ đọc kịch bản.

À, ông Hà Huy Giáp lạ lắm. Có một vở của bọn tôi, ông ấy rất thích, đến khi một ông Bộ Chính trị bảo có vấn đề thế là ông lại quay ra phê phán.

Rồi đến lúc mấy ông ở Bộ Chính trị cùng xem và bảo không có vấn đề gì, thì là ông ấy lại bảo được.

Còn nhớ cái lần tôi với ông Nguyễn Đình Thi làm vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Lúc làm cũng hào hứng lắm, mà hào hứng nhất là giây phút cảm thấy rằng mình có vẻ như đã nắm được ranh giới, chỗ nào cần vươn tới, chỗ nào cần dừng lại.

Nhưng đến khi bị phê bình thì mới ngớ ra. Hình như mình không nắm được gì cả. Mà hình như ranh giới rất khó nắm nữa.


Một người, như ông Phạm Văn Đồng bao giờ cũng là người thích giữ thể diện (người theo đường lối của cái mặt - ông Nghi nói bằng tiếng Pháp).

Mới đây, có câu chuyện, gia đình Tú Mỡ lên tặng ông Đồng bộ sách Toàn tập Tú Mỡ. Nói chuyện linh tinh một lúc, ông Đồng bảo, anh em phụ trách bây giờ không làm được gì cho nghệ thuật, vì họ không phải người làm văn hoá.

Điều này, chính người con của Tú Mỡ nói với tôi.

Nhưng tôi (NĐN) lại ngẫu nhiên nghe được một ý do Ngô Thảo nói lại. Ngô Thảo kể rằng ông Đồng bảo không nên trách anh em bây giờ là không có văn hoá. Họ còn bận đánh giặc. Mình mà trách họ, thì chính mình mới là người thiếu văn hoá.

Cả hai cái ý này kết hợp lại mới tạo nên một cách nhìn nhận đúng.

Chiến tranh ghê lắm. Để chiến thắng phải sẵn sàng làm tất cả.

Không thể tưởng tượng được rằng sau khi nghe ông Lý Ban nói về thơ đầy tớ ở Trung quốc - ý nói thơ phục vụ công nông binh --, ông Tố Hữu, một người không phải là không bản lãnh, cũng bảo: Hay là ta cũng làm thơ đầy tớ.

Hoặc cũng không thể tưởng tượng được một người như ông Nguyễn Chí Thanh, ông ấy quyết đoán như thế nào. Hồi ấy, đã bàn nhau rằng có lẽ, không thể tính làm văn nghệ lớn, mà chỉ làm văn nghệ cho quần chúng là được.

Tuesday 3 August 2010

88 Minutes

Just watched on StarMovies this true suspense movies about a schizophreniac serial killer.

Feeling Completely FREE

It's soooo exhilarating & wonderful.